Tài liệu học tập làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho đoàn viên 2022 - Phòng GD&DT Sa Thầy

Tài liệu học tập làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho đoàn viên 2022

pgdsathay
pgdsathay 19/08/2022

Cùng Phòng GD&DT Sa Thầy đọc bài viết Tài liệu học tập làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho đoàn viên 2022.

Trung ương Đoàn đã ban hành 02 chuyên đề học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ đoàn và đoàn viên, thanh niên năm 2022. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng, đủ năng lực tiên phong, gương mẫu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Sau đây là nội dung chuyên đề 2022 cho đoàn viên, cán bộ Đoàn. Mời các bạn cùng tham khảo.

1. Chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho cán bộ Đoàn

Chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được cơ quan, đơn vị, tổ chức triển khai cho các cán bộ Đoàn viên hàng năm. Những Đoàn viên tham gia phải chấp hành đầy đủ các quy định của tổ chức. Ngoài ra, đây cũng là dịp để đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm bắt những nội dung cơ bản về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, những quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ. Đồng thời cập nhật thông tin thời sự quốc tế và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam để nâng cao hơn nữa nhận thức, vận dụng cụ thể hóa vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện ở địa phương, đơn vị.

Bạn đang xem: Tài liệu học tập làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho đoàn viên 2022

1.1 Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về thực hiện trách nhiệm nêu giương.

Nêu gương chính là việc thực hành để những giá trị của đạo đức và tài năng của người lãnh đạo được lan tỏa, dẫn dắt, truyền cảm hứng thúc đẩy mọi hành động của cấp dưới và người dân. Vấn đề nêu gương, gương mẫu của cán bộ, đảng viên luôn được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, đề cao. Đảng ta đã dùng sự gương mẫu, nêu gương để lãnh đạo cách mạng, lấy đó là 1 trong 5 phương thức lãnh đạo của Đảng – Một phương thức lãnh đạo khoa học, trí tuệ, đầy giá trị nhân văn để “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian khổ, hy sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương đạo đức toàn vẹn, mẫu mực cho mọi người học tập và noi theo. Ở Người là sự thống nhất, chặt chẽ giữa nói và làm, giữa giáo dục đạo đức và nêu gương đạo đức, đạt tới sự nhất quán giữa công việc và đời tư, giữa đạo đức vĩ nhân và đạo đức đời thường. Cuộc đời cách mạng của Người là minh chứng chân thực nhất để chúng ta thấy rõ Gương mẫu là mệnh lệnh không lời! Gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất! Học Bác về trách nhiệm nêu gương, cách nêu gương là làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người ngày càng thấm sâu, lan tỏa vào đời sống, trở thành cốt cách, tác phong của mỗi cán bộ, đảng viên.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc “nêu gương” của mọi tổ chức, mọi lực lượng cách mạng và mọi cá nhân, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Theo Người, sở dĩ cần phải “nêu gương” là do đặc thù của nền văn hóa, đạo đức phương Đông luôn coi trọng tình cảm, luôn lấy cái tốt đẹp của người khác để làm tấm gương soi mình. Người viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do đó để tập hợp được lực lượng, vận động được quần chúng, để được quần chúng tin tưởng, sẵn sàng tham gia và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, thì người đảng viên, người cán bộ lãnh đạo phải nêu gương. Vì thế, Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên không những phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt, mà còn phải làm gương trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo. Người thường nói không cần nói nhiều, mà làm cho thật nhiều. Những người tốt, những cán bộ tốt muốn làm việc to chứ không phải muốn làm “quan lớn”. Người nhấn mạnh “Đảng không cần con số cho nhiều, tuy nhiều là tốt, nhưng phải có cái chất của người đảng viên”. Mà cái chất tốt nhất, đẹp nhất của đảng viên là nêu gương, là gương mẫu.

Ngay từ khi bắt tay vào công tác huấn luyện cán bộ, Người đã luôn nhắc nhở mỗi cán bộ phải nêu cao tinh thần gương mẫu. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người cách mạng tư cách phải chuẩn mực, phải thường xuyên rèn luyện, thực hành để thật sự là tấm gương trong các mối quan hệ: (1) Đối với mình không được tự cao, tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, phải luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân, phải tự phê bình mình như rửa mặt hàng ngày; (2) Đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, khoan dung, độ lượng, không dối trá, lừa lọc; (3) Đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, tức phải luôn để việc công lên trên, lên trước việc tư.

Khi Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nêu ra 12 điều về Tư cách của Đảng chân chính cách mạng. “Tư cách” ở đây chính là sự nêu gương, là tấm gương của sự phấn đấu hy sinh vì dân, vì nước bởi “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Do đó, “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”. Để trở thành người cách mạng chân chính, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu gương về Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư, nêu cao đức tính tốt đẹp: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm; phải tránh xa những thói xấu như lười biếng, gian xảo, tham lam… Đồng thời, Người chỉ ra luận điểm rất quan trọng: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Luận điểm ấy đã khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm, bổn phận của cán bộ, đảng viên. Muốn hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mọi người phải nỗ lực hết mình, nhất là cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải là những “đầu tàu gương mẫu” trong mọi việc. Không chỉ nói về việc nêu gương của cán bộ, đảng viên nói chung, ngay từ lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò nêu gương của người đứng đầu. Theo Người, người đứng đầu thực sự nêu gương tốt sẽ có ảnh hưởng tích cực rất lớn đối với cấp dưới và quần chúng nhân dân. Trong bài nói chuyện tại phiên họp cuối năm của Hội đồng Chính phủ năm 1963, Người nhắc nhở: “Một điều rất quan trọng nữa là các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu, phải không ngừng nâng cao chí khí cách mạng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Có như thế mới xứng đáng với đồng bào miền Nam đang chiến đấu vô cùng anh dũng chống đế quốc Mỹ và tay sai của chúng để giải phóng miền Nam và hòa bình thống nhất nước nhà. Nhân dân ta rất tốt. Nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được”.

Người khẳng định, người đứng đầu mà không nêu gương là không có trách nhiệm với nhân dân, với Tổ quốc, với chính bản thân mình; là không xứng đáng với vị trí lãnh đạo, đứng đầu. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần trách nhiệm là đưa tinh thần và lực lượng, tận tâm, tận lực làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công, bất kỳ việc to hay nhỏ, khó hay dễ. Làm cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm, khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy… là không có tinh thần trách nhiệm, là không có ý thức nêu gương. Khi mở đầu bài viết “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Bác khẳng định “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Đây vừa là lời nhắc nhở, vừa là lời chỉ bảo ân cần của Người đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Cán bộ, đảng viên phải tiên phong trong suy nghĩ và hành động, dù ở hoàn cảnh thuận lợi hay khó khăn, có như vậy quần chúng nhân dân mới tin tưởng và noi theo. Để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, Người đặc biệt coi trọng hai phương pháp: 1) Nói đi đôi với làm. Đây vừa là phương pháp, vừa là nguyên tắc và phương châm trong nêu gương đạo đức; là biểu hiện sinh động, cụ thể của việc quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động, giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của mỗi người. Trong đó phải chú ý cả hai mặt nêu gương nói và nêu gương làm. Nêu gương nói là nói ít, nói trúng, nói những vấn đề thiết thực, nói đúng lòng mình, thật tâm, không dối trá, không nói một đàng làm một nẻo, không được hứa mà không làm. Cán bộ không phải ai cũng có khả năng hùng biện, nói hay như báo cáo viên, nhưng nói thật, nói phải, nói trúng thì ai cũng nhận ra cả. Nêu gương nói còn là nêu gương về sự nghiên cứu thấu đáo, nắm vững tình hình. Nếu không sát cơ sở, chỉ đạo theo kiểu ngồi bàn giấy thì chẳng bao giờ nói trúng. Còn vấn đề nêu gương làm được hiểu một cách đơn giản nhất là dám nghĩ, dám làm, trách nhiệm cao, hiệu quả công việc lớn. Người cho rằng, với trình độ giác ngộ và dân trí ngày càng cao, không phải cứ nghe cán bộ nói là quần chúng sẽ làm theo mà họ xem việc cán bộ làm. Cán bộ, đảng viên “cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh… phải thật thà nhúng tay vào việc”. (2) “Lấy gương người tốt việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Trong gia đình, cha mẹ là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương đối với các em; trong nhà trường, thầy, cô giáo là tấm gương cho học trò; trong cơ quan, tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người khác… Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên chẳng những phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng mà còn phải là tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.

Một điều rất đặc biệt ở Chủ tịch Hồ Chí Minh mà không phải nhà lý luận, nhà chính trị nào cũng có được, đó là Người không chỉ đưa ra những tư tưởng, quan điểm rất đúng đắn về nêu gương mà chính Người còn là hiện thân cao đẹp nhất về trách nhiệm nêu gương trước Đảng, trước nhân dân. Phong cách nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện xuyên suốt trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người kiên trì nêu gương về đạo đức còn nhiều hơn những điều Người nói và viết ra, địa vị càng cao, uy tín càng lớn, Người càng ra sức tự hoàn thiện. Chính bản thân Người là một tấm gương sáng ngời về phong cách nêu gương, Người không chỉ tiếp thu, kế thừa, bổ sung, phát triển và hoàn thiện lý luận về phương pháp, mà Người đã thực hành phong cách nêu gương một cách nhuần nhuyễn, hết sức mẫu mực và tự nhiên.

Khuyên nhân dân rèn luyện thân thể để có sức khỏe kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công thì bản thân Người ngày nào cũng tập thể dục. Khuyên thanh niên tự học, Người đã là một tấm gương tự học suốt đời. Khuyên người khác biết trọng chữ tín, Bác rời Pắc Bó hai năm, khi quay trở lại vẫn nhớ mang về cho cháu gái nhỏ người địa phương ở đó chiếc vòng bạc theo lời hứa trước khi tạm biệt. Khuyên mọi người giản dị, tiết kiệm vì đất nước còn nghèo, nhân dân còn đói khổ thì suốt cả cuộc đời Người luôn giản dị và tiết kiệm. Ở địa vị càng cao Người càng giản dị, trong sạch, cả một đời không xa xỉ, hoang phí. Khi đã là Chủ tịch nước, đôi tất của Người cũng vá nhiều lần mới thay. Đôi dép cao su như “đôi hài vạn dặm nhiều thâm niên”, tụt quai thì được đóng đinh sửa lại không biết bao lần. Bát cháo Người ăn lúc mệt cũng được nấu lại từ cơm nguội cho khỏi lãng phí… Người chắt chiu như người cha lo cho một gia đình lớn khi cảnh nhà đông con mà còn túng thiếu. Chắt chiu, tằn tiện nhưng vẫn rộng rãi, không hoang phí mà cũng không keo kiệt, ki bo. Chắt chiu để dành phần hơn cho người khác, tiết kiệm để giúp những người còn khó khăn hơn.

Không chỉ tiết kiệm tiền của, Người còn luôn nêu gương thực hành tiết kiệm thời gian, quý thời gian của mình và của người khác. Khi đã hẹn, dù đường có xa, trời có đổ mưa giông, người vẫn có mặt đúng giờ. Người dạy người chủ trì mà đi muộn họp 10 phút thì thời gian lãng phí phải nhân 10 phút ấy với số người đã có mặt phải chờ đợi. Người chấp nhận bản thân vất vả chứ không lùi, không dời cuộc hẹn bởi không muốn người khác phải chờ đợi uổng công. Quỹ thời gian của con người là có hạn, người ta có thể làm lại một cái nhà, một con đường…, có thể lấy lại, làm lại rất nhiều thứ khác, nhưng không thể lấy lại được một tích tắc thời gian đã mất đi. Chính vì lẽ đó mà thời gian còn quý hơn vàng, bạc. Tiết kiệm thời gian là tiết kiệm thông minh và văn minh nhất. Người đã dạy cho chúng ta bài học quý giá biết bao. Sau này, cho đến tận phút lâm chung, Người vẫn không quên dặn lại: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là tấm gương điển hình về việc thực hành sự công bằng, yêu thương san sẻ cùng nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn, không dựa vào quyền cao chức trọng mà đàn áp kẻ yếu thế. Khi đi công tác, kể cả những chuyến đường rừng xa vất vả, Người cũng kiên quyết tự mình mang balô cá nhân, không để người khác phải gánh vác thay. Người nói: “Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người”. Khi nước nhà vừa giành được độc lập năm 1945, đứng trước nạn đói đang đến gần, Người kêu gọi đồng bào cả nước nhường cơm sẻ áo, cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa, đem gạo đó để cứu dân nghèo, để những người nghèo có bữa rau bữa cháo chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói. Thời điểm này, tuy vừa trải qua trận ốm dài ngày “thập tử nhất sinh” tại Chiến khu Việt Bắc trước khi về Hà Nội cho nên còn rất gầy yếu nhưng Người vẫn gương mẫu thực hành để góp phần lấy gạo cứu dân nghèo. Những câu chuyện, sự việc dù nhỏ, nhưng có thể thấy truyền thống “thương người như thể thương thân” của dân tộc Việt Nam đã được Bác tiếp thu sâu sắc và nâng lên thành triết lý hành động cách mạng vì dân, vì nước trong mỗi con người.

1.2. Ý nghĩa, sự cần thiết và tầm quan trọng của việc nêu gương, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay

Trải qua hơn 90 năm xây dựng và trưởng thành, nhất là sau 35 năm đất nước thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta ngày càng khẳng định và coi trọng ý nghĩa, sự cần thiết và quan trọng của việc nêu gương, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là trong giai đoạn hiện nay.

Sau 15 năm, kể từ khi triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị đến nay, các cấp uỷ, tổ chức đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện việc học tập và làm theo Bác gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, khá toàn diện, với nhiều cách làm mới, sáng tạo, thiết thực, tạo chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, có sức lan toả trong Đảng và toàn xã hội. Việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện các quy định về nêu gương đã từng bước đi vào nền nếp, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, đóng góp quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiềm chế, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Từ việc học tập và làm theo Bác, ngày càng xuất hiện nhiều gương điển hình, tiên tiến, việc làm tốt, có sức lan tỏa trong cuộc sống. Tỉnh Quảng Trị, trong 5 năm qua, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã khen thưởng cho 234 tập thể, 333 cá nhân có thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Trong năm ba năm từ 2019 đến 2021 Thủ tướng Chính phủ đã tặng Bằng khen cho 4 tập thể và 6 cá nhân; UBND tỉnh tặng Băng khen cho 120 tập thể, cá nhân trong dịp Lễ Kỷ niệm 70 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc; 90 tập thể, cá nhân trong sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 05 – CT/TW, có 05 cá nhân điển hình tiên tiến được tham dự Đại hội thi đua yêu nước tỉnh lần thứ V và 01 cá nhân điển hình tiên tiến được tham dự Đại hội thi đua yêu nước Toàn quốc lần thứ X. Những kết quả nêu trên là nhân tố quan trọng, góp phần vào sự thành công của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ quê hương. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện các quy chế nêu gương trên cả nước nói chung và tỉnh Quảng Trị nói riêng còn bộc lộ những vấn đề đáng suy nghĩ và quan ngại, đã được các cấp ủy và Trung ương Đảng thẳng thắn chỉ rõ: Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở, suy thoái về tư tưởng chính trị. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ cấp cao lợi dụng chức quyền và những sơ hở trong chính sách, pháp luật để tham ô, tham nhũng, gây thất thoát, lãng phí tài sản, đất đai rất lớn của nhân dân và Nhà nước. Trong khi đất nước còn nhiều khó khăn, lại có những cán bộ, đảng viên có lối sống xa hoa bằng những đồng tiền bất chính hoặc quan hệ không trong sáng, gây bức xúc trong nhân dân và cán bộ, đảng viên.

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII nêu rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn,…”; đặc biệt Kết luận số 21-KL/TW, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII khẳng định: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng còn hạn chế,…”. Tình trạng thiếu tự giác nhận khuyết điểm, đổ lỗi, nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi, thấy sai không dám đấu tranh, thấy đúng không dám bảo vệ; nhiều cán bộ, đảng viên không dám nhận khuyết điểm, sai phạm của mình. Tình trạng mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ diễn ra ở một số cơ quan, đơn vị chưa được giải quyết kịp thời; vẫn còn một số cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo ngại khó khăn, gian khổ, đùn đẩy, né tránh, không sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi tổ chức phân công…

Nguyên nhân chủ yếu là do một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình; chưa quyết tâm và có biện pháp chỉ đạo đủ mạnh, còn thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa gương mẫu, mất đoàn kết nội bộ, chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ với lợi ích vật chất, thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân.

Điều đó đã gây ra dư luận xấu trong xã hội, làm giảm niềm tin, uy tín chính trị và thanh danh của Đảng trong nhân dân, giảm sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, là nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Đây là một nguy cơ rất lớn, bởi vì, một khi quần chúng nhân dân đã mất niềm tin vào đạo đức của người cầm quyền, người lãnh đạo thì niềm tin chính trị của họ cũng không còn, đúng như cảnh báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi qua đời: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Vì vậy, hơn bao giờ hết, nêu gương phải được coi là bổn phận, nghĩa vụ và trách nhiệm, đồng thời phải có tính tự giác, tự nguyện, trở thành một nhu cầu văn hoá trong lẽ sống, lối sống và nếp sống hằng ngày của mỗi người, trước hết là của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, bởi không nêu gương, cán bộ, đảng viên sẽ tự suy thoái.

1.3. Đẩy mạnh học tập và làm theo Bác, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay.

Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành lối sống, nếp nghĩ, cách làm của từng cán bộ, đảng viên, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải phát huy tốt vai trò nêu gương của mình trong học tập và làm theo Bác.

Một là, mọi cán bộ, đảng viên phải phát huy tốt vai trò, trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo Bác tinh thần toàn diện, thường xuyên, liên tục. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương và thành thực nêu gương từ trong suy nghĩ đến hành động, đảm bảo toàn diện đối với bản thân mình, đối với người và đối với công việc; phải làm gương thường xuyên từ việc nhỏ đến việc lớn, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, nói đi đôi với làm. Đối với mình, không được tự cao, tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, phải luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân, phải tự phê bình mình như rửa mặt hằng ngày. Đối với người, phải giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, luôn khoan dung, độ lượng. Đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, đặt lợi ích quốc gia dân tộc, của tập thể và của nhân dân lên trên hết, trước hết.

Hai là, người đứng đầu, người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng cần phải nêu gương, tăng cường thực hành nêu gương trong rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách làm việc, học tập, sinh hoạt trước cán bộ, đảng viên và nhân dân, khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên phong, gương mẫu “trên trước, dưới sau”, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Phải lấy ấm no, hạnh phúc và sự hài lòng của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thực hành phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, hiệu quả; thực sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể. Chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả công tác cải cách hành chính, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ; khuyến khích mô hình, cách làm mới, hiệu quả. Năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tích cực giải quyết dứt điểm các vấn đề phức tạp, bức xúc, tồn đọng kéo dài; chủ động, kịp thời xử lý có hiệu quả các tình huống khẩn cấp, đột xuất, bất ngờ trong địa phương, lĩnh vực mình phụ trách. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ kế cận. Chủ động, tích cực phát hiện, thu hút, trọng dụng người có đức, có tài, khát khao cống hiến. Bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp của Đảng, vì lợi ích quốc gia – dân tộc, vì sự ổn định và phát triển của địa phương. Nghiêm túc thực hành tự phê bình và phê bình; thấy đúng phải cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh; không tranh công đổ lỗi. Dũng cảm nhận khuyết điểm và trách nhiệm. Chủ động xin từ chức khi thấy mình không còn đủ điều kiện, năng lực, uy tín để thực hiện nhiệm vụ. Rèn luyện lối sống giản dị, tiết kiệm, chống xa hoa, lãng phí.

Ba là, nêu gương của cán bộ, đảng viên phải thông qua hoạt động thực tiễn, bằng những việc làm cụ thể. Trọng tâm là nêu gương trong đổi mới tư duy; trong hành động triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức, cá nhân; trong cải cách hành chính, tác phong, lề lối làm việc. Phải “miệng nói tay làm, phải tuỳ hoàn cảnh mà tổ chức giúp đỡ nhân dân thực sự, không phải chỉ dân vận bằng diễn thuyết”, đã nói thì phải làm, đã làm thì phải có hiệu quả vì lợi ích chung của tập thể, của nhân dân. Thông qua hoạt động thực tiễn, những tấm gương về học tập và làm theo Bác sẽ lan tỏa và in đậm trong mỗi cơ quan, đơn vị và trở thành mẫu số chung để mọi người học tập và làm theo. Đồng thời, cũng là điều kiện, tiêu chuẩn để kiểm tra, đánh giá phẩm chất và năng lực của cán bộ, đảng viên và kết quả thực hiện học tập và làm theo Bác của mỗi cơ quan, đơn vị.

Bốn là, từng cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ thường xuyên bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đặc biệt là về nội dung tự giác nêu gương để không ngừng bồi dưỡng trí tuệ, năng lực, phẩm chất của mình. Qua đó, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ lý luận, năng lực tổng kết để giải quyết hiệu quả những vấn đề đang đặt ra, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng; nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả trong công tác tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.

Năm là, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình gắn với phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu. Chú trọng đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp, hình thức học tập, tuyên truyền về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phù hợp với từng đối tượng. Đẩy mạnh việc phát hiện, bồi dưỡng, biểu dương, tuyên truyền, nhân rộng các tấm gương, điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo Bác. Quan tâm nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người Quảng Trị gắn với giữ gìn, phát huy những phẩm chất tốt đẹp của con người Quảng Trị trong tình hình mới, gắn kết chặt chẽ giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hoá trong lãnh đạo, quản lý, kinh doanh và giao tiếp xã hội. Chú trọng xây dựng môi trường văn hoá công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn, tiếp tục xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; xây dựng văn hoá doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc, quy định tự phê bình và phê bình, đấu tranh không khoan nhượng với các biểu hiện “tránh việc mới, né việc khó”, thờ ơ, vô cảm trước những bức xúc của nhân dân. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ. Có các giải pháp, biện pháp hiệu quả để ngăn chặn, đẩy lùi.

2. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo

2.1. Nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo

Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cuộc đời một con người trọn đời vì dân, vì nước. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” . Chính lòng yêu nước nồng nàn, ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước, dân tộc là động lực thôi thúc Người nung nấu tinh thần đổi mới từ rất sớm, đổi mới không ngừng.
Thuật ngữ và tư tưởng “đổi mới” được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập từ sớm trong tác phẩm “Đường cách mệnh” năm 1927; sau đó, được Người nhắc lại, làm rõ thêm trong nhiều bài viết, bài nói, nổi bật là “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), “Đời sống mới” (năm 1947), “Dân vận” (năm 1949), đặc biệt là trong bản “Di chúc” thiêng liêng. Tất cả toát lên một hệ thống luận điểm có giá trị nền tảng và định hướng rất rõ nét về “đổi mới”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “đổi mới” là bản chất của cách mạng, của phát triển. Trong “Đường cách mệnh”, Người chỉ rõ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt” . Nói về công cuộc kiến thiết đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước thắng lợi, Người nhấn mạnh: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.

Triết lý đổi mới, chân lý đổi mới trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ích nước, lợi dân. Người luôn căn dặn: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý” ; “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” . Người quan niệm, “đổi mới” phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của thực tiễn, phù hợp với điều kiện thực tiễn và giải quyết hiệu quả những đòi hỏi của thực tiễn. Bởi thực tiễn là xuất phát điểm của tư duy, của hành động và là sự kiểm chứng chân lý khoa học. Người căn dặn: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính” . Chính vì thế mà tìm tòi, sáng tạo cái mới, phải luôn gắn với thực tiễn, chú trọng tổng kết thực tiễn, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo tính đúng đắn của đổi mới.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “đổi mới” không phải là phủ định sạch trơn, mà là sự kế thừa và phát triển; cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý, cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải làm.

Người cũng khẳng định: Đảng là linh hồn của đổi mới; cán bộ, đảng viên phải đi tiên phong trong sự nghiệp đổi mới. Đảng phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng của Việt Nam để thực hiện đường lối, chủ trương đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân” . Hệ thống luận điểm về “đổi mới” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được diễn đạt giản dị, dễ hiểu, nhưng hàm chứa chiều sâu, tầm cao về tư tưởng và đúc kết tinh túy đạo đức đổi mới, phong cách đổi mới của Người.

Bên cạnh đó, ở Hồ Chủ tịch còn có phong cách tư duy sáng tạo. Đó là vận dụng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù. “Sáng tạo” còn là sẵn sàng từ bỏ những cái cũ đã lỗi thời, không phù hợp với thực tiễn. Đồng thời, “sáng tạo” là tìm tòi, đề xuất những cái mới để trả lời những đòi hỏi mà cuộc sống đặt ra. Cái mới là cái chưa từng có trong tiền lệ lịch sử. Cái mới có thể kế thừa cái cũ, bổ sung giá trị mới, làm cho cái mới khác về chất so với cái cũ. Cái mới, cái sáng tạo, theo Người phải phù hợp với quy luật khách quan, đồng thời phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội loài người.

Từ năm 1911, khi đất nước còn chìm trong đêm dài nô lệ, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã quyết định đi tìm chân lý cứu nước, với một hướng đi mới, một phương pháp tiếp cận mới, phương thức hành động mới. Đi về phương Tây, tiếp thu những trào lưu tư tưởng mới, khảo nghiệm những cuộc cách mạng điển hình trên thế giới; “tắm mình” trong phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, bóc lột; đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm ra chân lý cứu nước và con đường giải phóng cho dân tộc. Đó là cuộc đổi mới, sáng tạo vĩ đại đầu tiên của Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh, được thực hiện bằng một dự cảm thiên tài, một cuộc khảo nghiệm, đúc kết lịch sử, cách mạng nghiêm cẩn, khoa học, mang ý nghĩa quyết định đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là Cách mạng Tháng Mười Nga mà còn đổi mới tư duy trong xây dựng đường lối chiến lược và đổi mới phương thức lãnh đạo, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân giành độc lập, tự do; xây dựng Nhà nước cách mạng, tiến hành sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc; đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất đất nước; từng bước đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, khắc phục đói nghèo, lạc hậu,… Tư duy đổi mới sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với điều kiện của Việt Nam và các nước thuộc địa, nhất là tư tưởng về Đảng Cộng sản cầm quyền, về cách mạng thuộc địa, về đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về nhà nước dân chủ nhân dân, về chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,…là những cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng thế giới, làm mới mẻ, sinh động và tăng thêm sức sống tiềm tàng của chủ nghĩa xã hội khoa học.

Trong phong cách làm việc, ứng xử, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự đổi mới sáng tạo, linh hoạt và biến hóa. Người nói: “Tư tưởng bảo thủ như là sợi dây cột chân, cột tay người ta… Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm” . Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng đến khi Người từ trần (1941 – 1969), là một công cuộc đổi mới liên tục của Đảng, nhân dân ta theo ngọn cờ và sự dẫn dắt của “Tổng công trình sư” đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh.

Đặc biệt, “Di chúc” của Người là bản phác thảo những đường nét chung nhất, bao quát nhất về công cuộc cải biến vĩ đại, nhằm xóa bỏ những gì cũ kỹ, lạc hậu để sáng tạo ra những giá trị mới, cuộc sống mới. Bác chỉ rõ điều mong muốn cuối cùng là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kết tinh trong bản “Di chúc” lịch sử, là nền tảng tư tưởng, tinh thần của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay.

Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã soi sáng con đường đổi mới của Đảng, của nhân dân ta. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, năm 1986 – Đại hội khai phóng con đường đổi mới, trên cơ sở quán triệt những luận điểm cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta quyết tâm phát động, lãnh đạo công cuộc đổi mới. Đường lối đổi mới của Đảng luôn thấm nhuần sâu sắc tư tưởng đổi mới của Người, đã làm sáng tỏ những nhận thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trở thành ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đặc biệt, tại Đại hội XIII, năm 2021, Đảng đặt ra yêu cầu “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo” nhằm tạo động lực mạnh mẽ cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, “tư tưởng đổi mới sáng tạo” là tư tưởng cách mạng, khoa học trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, kết hợp với tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại, phản ánh và giải quyết những nhu cầu khách quan của thực tiễn đất nước; “đạo đức đổi mới sáng tạo” là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của dân tộc, Tổ quốc lên trên hết, trước hết, đổi mới sáng tạo vì một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh; “phong cách đổi mới” là kiên định, sáng tạo, dân chủ, thực tiễn, hiệu quả, nói đi đôi với làm, làm thiết thực, mang lại kết quả thực tế cho nhân dân, cho đất nước. Đó chính là những giá trị bền vững của tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2.2. Quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là “đẩy mạnh đổi mới sáng tạo” và được nêu rõ trong chủ đề Đại hội, với quan điểm chỉ đạo là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng.

Kịp thời cụ thể hóa, tập trung lãnh đạo thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nghị quyết của Trung ương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu thực tế của tỉnh. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả… Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, gương mẫu, có uy tín cao với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm…

Đổi mới sáng tạo là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa” . Để thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh, mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị, các đơn vị doanh nghiệp, cán bộ, đảng viên và nhân dân phải thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới sáng tạo. Quyết tâm và kiên trì đổi mới mạnh mẽ hoạt động quản lý, điều hành công việc theo hướng nhanh chóng dỡ bỏ các rào cản để giải phóng tối đa sức sáng tạo của từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi người dân; đổi mới về tư duy trong cụ thể hóa và tổ chức, triển khai chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước vào thực tiễn từng cơ quan, đơn vị nói riêng; đổi mới về cách tiếp cận, phát huy có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, cơ quan, đơn vị; chủ động, tiên phong đưa các thành tựu khoa học và công nghệ vào phục vụ quá trình phát triển, tập trung nghiên cứu và thẳng thắn nhìn nhận những khó khăn vướng mắc đang đặt ra để tìm hướng đi phù hợp.

Thực hiện nội dung đổi mới với quyết tâm cao sẽ thúc đẩy, phát huy sự sáng tạo, đổi mới của các cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở trong việc vận dụng chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi địa phương, đơn vị. Từ đó, huy động và khơi dậy nguồn lực trí tuệ, tạo ra những hướng tiếp cận mới, khác biệt cho việc hoạch định được các chủ trương, chính sách đủ mạnh, khả thi trong điều kiện thực tiễn của tỉnh. Để thực hiện được các nhiệm vụ trên cần thực hiện đồng bộ các giải pháp:

Một là, tập trung đổi mới toàn diện, đồng bộ công tác cán bộ, xây dựng tổ chức đảng thực sự là hạt nhân chính trị, đảng viên thực sự là người tiên phong, gương mẫu. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách, thực thi công vụ; sàng lọc, loại bỏ cán bộ, công chức, viên chức yếu về năng lực, trình độ, uy tín giảm sút, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đồng thời, cụ thể hóa quy định của Trung ương, tạo môi trường, điều kiện khuyến khích, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; bảo vệ cán bộ dám đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động.

Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện phương pháp làm việc khoa học, thiết thực, hiệu quả; tự học tập, tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt, đặc biệt là kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị; phải gắn lý luận với thực tiễn để nắm được bản chất khoa học và cách mạng của sự vật, hiện tượng, làm cơ sở cho nhận thức thực tiễn đúng đắn và có biện pháp giải quyết thấu đáo, năng động, sáng tạo, đạt hiệu quả cao. Rèn luyện phong cách làm việc có kế hoạch, có chuẩn bị, có sự kiểm tra, giám sát, đánh giá; kế hoạch phải đảm bảo tính thực tiễn, khả thi cao. Phải thường xuyên có sự tìm tòi, đề xuất những ý kiến hay, những phương án tối ưu để thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao; không giáo điều, rập khuôn, không sao chép máy móc, hết sức tránh lối cũ, đường mòn, tự mình suy nghĩ để giải quyết thấu đáo mọi việc, phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tiễn.

Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong điều kiện mới. Nâng cao chất lượng ban hành các chủ trương, cơ chế, chính sách phát triển của cấp ủy, chính quyền theo hướng thiết thực, ngắn gọn, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng khâu lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết.
Tập trung lựa chọn các vấn đề bức xúc, nổi cộm, hạn chế, yếu kém ở địa phương, cơ quan, đơn vị để giải quyết dứt điểm theo phương châm “3 rõ” (rõ việc, rõ người chịu trách nhiệm, rõ thời gian hoàn thành). Tăng cường phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành gắn với ràng buộc trách nhiệm cho từng tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu.

Phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải khoa học, dân chủ, gần dân, sát dân, vì dân; bám sát thực tiễn, chịu khó học hỏi, nói đi đôi với làm và làm đến cùng, dứt điểm; có quyết tâm cao, hành động quyết liệt, hiệu quả, không bảo thủ, trì trệ, chống bệnh hình thức và thành tích. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.

Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị – xã hội các cấp đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động bằng các việc làm, mô hình cụ thể, hiệu quả bền vững; phát huy dân chủ, sức mạnh đoàn kết các dân tộc từ giá trị văn hóa truyền thống và sức sáng tạo của mỗi người dân, từng gia đình và cộng đồng dân cư.

Ba là, thực hiện quyết liệt, nghiêm minh kỷ luật, kỷ cương công vụ. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động, minh bạch, cắt giảm tối đa giao dịch trực tiếp. Nhanh chóng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước; sớm hoàn thành xây dựng chính quyền điện tử và chuyển mạnh sang xây dựng chính quyền số. Tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ hành chính công của những đối tượng khó khăn, đặc thù. Thúc đẩy toàn diện việc xử lý hồ sơ, công việc trên môi trường mạng, hướng tới mô hình các cơ quan nhà nước “không giấy tờ”.

Chú trọng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, xúc tiến đầu tư, thực hiện hiệu quả cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh của tỉnh thuận lợi, lành mạnh; thúc đẩy đổi mới sáng tạo; chú trọng phát triển doanh nghiệp và hợp tác xã tại địa phương; tăng cường chuyển giao ứng dụng khoa học và công nghệ vào quản trị và sản xuất; huy động, quản lý và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả.

Bốn là, triển khai thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động đi vào thực chất, bằng các việc làm, mô hình cụ thể, mang lại hiệu quả thực tế để phổ biến sâu rộng trong xã hội nhằm đẩy lùi hiện tượng “trông chờ”, “ỷ lại”, “trì trệ” của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Thực hiện mở rộng dân chủ gắn với kỷ cương, pháp luật, lấy quyền làm chủ và lợi ích của nhân dân, sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của con người làm đạo lý đổi mới sáng tạo. Nhân dân vừa là mục tiêu, động lực vừa là chủ thể và là người thụ hưởng thành quả của đổi mới sáng tạo. Từ đó, thắp lên ngọn lửa khát vọng, niềm tin và hành động xây dựng Quảng Trị phát triển nhanh và bền vững, không cam chịu khó khăn và lạc hậu trong mỗi cán bộ, đảng viên, từng người dân và trong toàn bộ hệ thống chính trị.

3. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc

Sức mạnh của lòng yêu nước, của chủ nghĩa dân tộc và quá trình khảo nghiệm thực tiễn cách mạng thế giới đã hình thành và phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và con đường cách mạng vô sản, đặt nền móng cho sự phát triển tư tưởng mácxít ở Việt Nam, tạo ra những điều kiện cốt lõi đưa đến những thành công của cách mạng nước nhà.

a. Về ý chí tự lực, tự cường

– Theo Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, ý chí tự lực, tự cường là độc lập, tự chủ không trông chờ, ỷ lại, phụ thuộc vào bên ngoài. Trong thời gian hoạt động ở Quốc tế Cộng sản, Người đã không tán thành quan điểm khá phổ biến lúc bấy giờ của nhiều nhà lãnh đạo cách mạng ở một số nước chính quốc: Cách mạng ở các nước thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, chính quốc thắng thì thuộc địa mới thắng. Người tin tưởng với ý chí, khát vọng đấu tranh mãnh liệt, bất khuất vì độc lập, tự do, cách mạng ở các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động giành thắng lợi, không phụ thuộc vào việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không. Người nhấn mạnh: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập” .

– Muốn tự lực, tự cường, theo Hồ Chí Minh cần phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân. Muốn làm được cách mạng, quần chúng nhân dân phải được giác ngộ, vận động, tổ chức, rèn luyện. Như vậy mới có thể huy động, tập hợp, phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của mọi lực lượng quần chúng trên cùng một mặt trận, biến ý chí tự lực, tự cường của quần chúng thành sức mạnh cách mạng.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “nhân dân” là phạm trù cao quý nhất. Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được” . Vì vậy, Người luôn nhấn mạnh phải động viên lực lượng của toàn dân, có dân là có tất cả. Sức mạnh ý chí tự lực, tự cường, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta của toàn dân được huy động và hiện diện to lớn, tạo nên thành công vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Đảng ta tiếp tục phát huy cao độ vai trò, sức mạnh của nhân dân trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo nên những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, đem lại những thay đổi lớn lao về diện mạo đất nước như hôm nay.

– Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn có được sức mạnh của ý chí tự lực, tự cường dân tộc thì phải có sự tổ chức chặt chẽ, có phương pháp cách mạng đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, nhấn mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc thực dân và chế độ phong kiến đã suy tàn, thực hiện mục tiêu chiến lược: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” . Nhờ có phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã chủ động chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày, Cách mạng Tháng Tám (1945) diễn ra mau lẹ, ít đổ máu, giành thắng lợi hoàn toàn trên cả nước, khai sinh nền dân chủ cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

– Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự lực, tự cường không có nghĩa là coi nhẹ ngoại lực và sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài. Cần kết hợp sức mạnh nội lực và ngoại lực, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, trong đó nhân tố mang tính quyết định đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” nhưng đồng thời “phải củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới” . Phải biết kết hợp khéo léo, chặt chẽ giữa phát huy sức mạnh nội lực và sức mạnh ngoại lực, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa mọi nguồn lực thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng. Đề cao tự lực, tự cường nhưng không rơi vào biệt lập, cô lập.

– Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định không chỉ tự lực, tự cường trong đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước mà còn phải tự lực, tự cường trong bảo vệ, giữ vững nền độc lập dân tộc; phát huy tinh thần lao động sáng tạo, xây dựng, phát triển đất nước. Người luôn chú ý đến vấn đề kiến quốc, phát huy tinh thần lao động sáng tạo của mọi người dân, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để xây dựng và phát triển đất nước.Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ phải phát triển toàn diện kinh tế từ nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp tới phát triển dịch vụ, mở rộng giao lưu kinh tế với các nước, trước hết là các nước anh em, các nước xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, phong trào thi đua lao động ở các ngành, các giới đã được phát động, tổ chức theo tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai”, Phong trào “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Tay búa, tay súng”, “Ba sẵn sàng”, “Năm xung phong”… Thời gian này, Việt Nam nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ quý báu của bạn bè quốc tế, góp phần tạo nên sức mạnh tổng lực, xây dựng vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chi viện tiền tuyến miền Nam, đánh thắng đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

b. Về khát vọng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc

– Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xác định đó là con đường tất yếu đi tới ấm no, phồn vinh, hạnh phúc. Tư tưởng của Người đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Trong bản “Tuyên ngôn độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định và tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Trong từng thời kỳ cách mạng, Người tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm, lý luận về con đường cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cách mạng cho thấy, cội nguồn mọi thắng lợi của dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh là do Đảng ta nhận thức đúng và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – là nhu cầu sống còn, là lựa chọn duy nhất của cách mạng Việt Nam trong tiến trình hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

– Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc thì phải xây dựng được nền tảng kinh tế, xã hội vững chắc; giữ vững quốc phòng, an ninh. Khi đất nước giành được độc lập, vấn đề kiến thiết, phát triển kinh tế – xã hội trở nên cấp thiết, Hồ Chí Minh càng khát khao mong muốn mọi người: “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành” . Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân ta; phát triển công nghiệp nhưng đồng thời cũng phải phát triển nông nghiệp, vì hai ngành đó khăng khít với nhau. Với vị trí chủ đạo của sản xuất nông nghiệp, Hồ Chí Minh chủ trương phải cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác, để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nước nhà. Bên cạnh đó, phải coi trọng nghiên cứu khoa học – kỹ thuật, phục vụ sản xuất. Coi trọng quản lý, hạch toán kinh tế, coi đây là chìa khoá phát triển kinh tế quốc dân. Chú ý chính sách mở cửa và hợp tác quốc tế, thu hút ngoại lực, hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của quốc phòng, an ninh nhằm đảm bảo và giữ vững thành quả cách mạng của dân tộc. Người chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, bao gồm Quân đội và Công an thật sự là lực lượng nòng cốt để giữ vững quốc phòng, an ninh, đảm bảo chủ quyền, độc lập dân tộc, quyền lợi và hạnh phúc chính đáng của nhân dân.

– Theo Người, để phục vụ công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh, phải phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Trong các nhiệm vụ và giải pháp cấp bách, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng việc nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng sức dân, thực hành “đời sống mới” bao gồm đạo đức mới, nếp sống mới, lối sống mới, thuần phong mỹ tục mới… Người nhấn mạnh, phải phát triển dân trí, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đảng và Nhà nước phải nắm vững khoa học – kỹ thuật, mỗi đảng viên đều phải cố gắng học tập văn hóa, học tập khoa học – kỹ thuật, cán bộ phải có văn hóa làm gốc, nông dân phải biết văn hóa, ai cũng phải biết văn hóa. Người chỉ ra nhiệm vụ quan trọng trong kiến thiết đất nước là bồi dưỡng nhân tài và chú ý xây dựng đời sống văn hóa và nếp sống văn hóa.

– Tư tưởng và lẽ sống của Hồ Chí Minh là tất cả lợi ích đều vì mục tiêu đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Người khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” . Người mong muốn xây dựng được một xã hội tốt đẹp mà xã hội đó do nhân dân lao động làm chủ, bình đẳng, không có chế độ người bóc lột người, một xã hội hoàn toàn mới, đầy tính nhân văn, mọi người dân có được nơi ăn chốn ở yên ổn, được học nghề phù hợp để dần dần “tự lực cánh sinh”; nhân dân cũng được góp công vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc và được hưởng thành quả do cách mạng mang lại.
– Người cũng luôn nhắc nhở, phát triển đất nước phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc phải trên cơ sở phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế, giá trị chung của nhân loại. Theo Người, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm, bước đi và biện pháp thích hợp trên cơ sở nhận thức khoa học, đúng đắn theo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

3.4. Kết luận

Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng ta và nhân dân ta, soi sáng sự nghiệp cách mạng, dẫn dắt mỗi bước đi lên và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về thực hiện trách nhiệm nêu gương; đổi mới sáng tạo; khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Thông qua học tập và làm theo để hiểu sâu hơn cuộc đời phấn đấu, hy sinh cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để chúng ta càng tin yêu hơn vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, càng tin tưởng, vững bước theo con đường, lý tưởng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.

Để biến mục tiêu đó thành hiện thực, đòi hỏi mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên trong toàn tỉnh phải nghiêm túc học và làm theo Bác, trở thành lối sống, nếp nghĩ, cách làm; tự trang bị cho mình một phương thức tu dưỡng, rèn luyện thiết thực, hiệu quả; phát huy tốt vai trò nêu gương để làm tròn vai trò, chức trách được giao, tích cực đổi mới sáng tạo trong công việc; khơi dậy mạnh mẽ khát vọng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

2. Tài liệu học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 2022 cho cán bộ Đoàn

Phần thứ nhất

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng tổ chức đoàn vững mạnh, mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng tổ chức đoàn vững mạnh

Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm vấn đề tổ chức thanh niên, xuất phát từ sự đánh giá của Người về vai trò và khả năng cách mạng của thanh niên trong tiến trình lịch sử. Người thấy rõ, muốn giải phóng dân tộc, muốn thành công xã hội mới, thanh niên phải được giáo dục, bồi dưỡng và tổ chức lại thành lực lượng, xuất phát từ vai trò, vị trí, quyết định của họ trong cách mạng. Theo Người: “… nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Mục đích cuối cùng của việc nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò và khả năng cách mạng của thanh niên theo quan điểm Hồ Chí Minh là để tổ chức thanh niên thành lực lượng chính trị hùng hậu của Đảng.

Để phát huy vai trò của thanh niên, Hồ Chí Minh rất coi trọng nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thanh niên. Người viết: “Ở Đông Dương, chúng ta có tất cả những cái mà một dân tộc có thể mong muốn… nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức”. Để đi tới việc thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã hình thành một tổ chức của thanh niên – Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, với tư cách là tiền thân của Đảng. Đây chính là sự thể hiện trong thực tiễn luận điểm quan trọng của Người về hồi sinh thanh niên, thức tỉnh thanh niên không chỉ bằng báo chí, tuyên truyền mà phải tổ chức họ lại, đưa họ ra đấu tranh.

Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh đến xây dựng một tổ chức thanh niên Cộng sản làm cánh tay và đội hậu bị cho Đảng. Trong quan điểm của Người: Đoàn “Là cánh tay đắc lực của Đảng để thực hiện những chủ trương và chính sách cách mạng”[3], trong việc tổ chức và giáo dục thế hệ thanh niên và nhi đồng thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đoàn không chỉ là cánh tay mà còn là “…đội hậu bị của Đảng”,nghĩa là, Đoàn là một tổ chức chính trị gần Đảng nhất và chỉ lớp người đi sau trong mối quan hệ với lớp chiến sỹ cách mạng đàn anh đi trước.

Về chức năng của Đoàn, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ Đoàn là: “Người phụ trách dìu dắt các cháu nhi đồng”. Trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chức năng của Đoàn Thanh niên được thể hiện hoàn chỉnh trong các mối quan hệ cơ bản nhất phản ánh tính chất của Đoàn là “đội xung kích cách mạng”.

Đoàn muốn mạnh thì mỗi thành viên trong tổ chức đều mạnh. Như vậy, rõ ràng chất lượng của tổ chức Đoàn được nâng lên từ chất lượng của từng đoàn viên. Đây chính là mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng đoàn viên trong tổ chức đoàn. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ nhất (2/1950) đã nêu lên vấn đề sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do chạy theo số lượng nên nhiều địa phương đã phát triển theo kiểu “đánh trống ghi tên”. Đại hội đã nghiêm khắc phê phán hiện tượng này và đề ra những chủ trương phải xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn với tư cách là “Một tổ chức trung kiên” của thanh niên có lòng yêu nước, tự nguyện phấn đấu cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.

Luận điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng đoàn viên rất rõ ràng. Người nhiều lần khẳng định: “Tổ chức của Đoàn phải rộng hơn Đảng… Cố nhiên, khi kết nạp đoàn viên cần phải lựa chọn cẩn thận những thanh niên tốt”[5]; “Cần phải phát triển Đoàn hơn nữa, nhưng phải chọn lọc cẩn thận, trọng chất lượng hơn số lượng”[6]. Như vậy, trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng càng khó khăn phức tạp, Người yêu cầu về chất lượng đoàn viên ngày càng cao hơn. Chất lượng cán bộ, đoàn viên được Hồ Chí Minh xác định trong 5 điều Người dạy đoàn viên, thanh niên trong thư Người gửi cho tuổi trẻ cả nước nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945):

“- Phải luôn nâng cao chí khí cách mạng “trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Không sợ gian khổ, hy sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

– Phải tin tưởng sâu sắc ở lực lượng và trí tuệ của tập thể, của nhân dân. Tăng cường đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật. Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do.

– Luôn trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn và giản dị. Chống kiêu căng, tự mãn. Chống lãng phí, xa hoa. Thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh, để giúp nhau cùng tiến bộ mãi.

– Luôn chú ý dìu dắt và giáo dục thiếu niên và nhi đồng, làm gương tốt mọi mặt để đàn em noi theo”.

Để từng bước hình thành những phẩm chất trên, Hồ Chí Minh yêu cầu từng đoàn viên cần ý thức sâu sắc về vai trò, vị trí của mình trong tổ chức đoàn và trong các tập thể thanh niên để ra sức tu dưỡng, rèn luyện. Ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân.

Theo quan điểm Hồ Chí Minh, Đảng phải trực tiếp lãnh đạo việc xây dựng, củng cố tổ chức đoàn để đoàn trở thành lực lượng tiên phong chiến đấu của thanh niên, đội hậu bị của Đảng và đặt ra yêu cầu cán bộ, đảng viên phải trực tiếp chăm lo xây dựng, củng cố Đoàn. Nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ đảng cấp huyện (tháng 1/1967), Hồ Chí Minh căn dặn chi bộ phải chăm lo xây dựng Đoàn Thanh niên cho thật tốt, vì “Đoàn viên và các đội thanh niên xung phong là cánh tay của chi bộ”.

Khi đến thăm các địa phương, đơn vị cơ sở, hoặc thay mặt Trung ương Đảng kêu gọi cán bộ, đảng viên, cũng như khi nhắc tới đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc tới đoàn viên. Trong lễ chúc mừng Đảng ta 30 tuổi (1/1960), Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương kêu gọi: “…toàn thể đảng viên và đoàn viên thanh niên lao động, bất kỳ ở cương vị nào, làm công việc gì đều phải trau dồi đạo đức cách mạng, tẩy trừ chủ nghĩa cá nhân, cố gắng học tập chính trị, văn hóa và khoa học kỹ thuật, làm tốt công tác kinh tế, tài chính, gương mẫu trong mọi việc làm”. Đối với Người hai khái niệm đảng viên và đoàn viên luôn đi liền với nhau.

Để Đoàn phát triển mạnh mẽ, vững chắc, theo Hồ Chí Minh cần phải phát động phong trào thi đua yêu nước, vì: “Phong trào thi đua yêu nước làm nảy nở ra nhiều thanh niên tích cực và tiên tiến ở các ngành, các nghề. Đó là điều kiện thuận lợi giúp cho Đoàn phát triển mạnh mẽ và vững chắc”. Vì vậy, xây dựng củng cố tổ chức Đoàn không chỉ là giữ sinh hoạt cho đều, nắm được danh sách đoàn viên, thu được đoàn phí, tổ chức học tập lý luận … mà quan trọng nhất là phải thông qua hoạt động thực tiễn, qua phong trào hành động từ đó phát hiện những nhân tố tích cực mà bồi dưỡng, tuyển chọn để đưa vào Đoàn nhằm tăng sức chiến đấu cho Đoàn. Tổ chức đoàn chỉ có thể phát triển và trở thành vững mạnh khi thực hiện tốt vai trò đầu tàu, quy tụ thanh niên tham gia phấn đấu cho mục đích lý tưởng. Người dạy: “Thanh niên phải làm xung phong đến những nơi khó khăn, gian khổ nhất. Nơi nào người khác làm ít kết quả, thanh niên phải xung phong đến làm cho tốt”.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên

Một là, mục tiêu của tổ chức, tập hợp thanh niên là để xây dựng tổ chức đoàn vững mạnh

Mục tiêu của đoàn kết, tập hợp thanh niên là hình thành một mặt trận rộng lớn, một nhiệm vụ rất quan trọng của Đoàn mà Người luôn căn dặn phải thực hiện cho tốt. Người chỉ ra rằng muốn xây dựng và phát triển Đoàn thành một lực lượng vững chắc trước hết phải đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên, tránh cô độc, hẹp hòi.

Huấn thị tại Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc Hà Nội (27/9/1945) điều đầu tiên Người nêu ra là thanh niên phải hình thành một mặt trận thống nhất. Đầu năm 1946, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Mặt trận đoàn kết thanh niên do Đoàn Thanh niên Cứu quốc làm trụ cột, lấy tên là Tổng đoàn Thanh niên Việt Nam (sau đổi tên là Liên đoàn Thanh niên Việt Nam). Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vì thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai – tức là các cháu nhi đồng”, nên thanh niên phải được đoàn kết, tập hợp lại.

Hai là, cần phải đưa thanh niên vào các loại hình tổ chức thích hợp để ai cũng được giáo dục, rèn luyện, trưởng thành.

Tại Đại hội xứ Đoàn Thanh niên Cứu quốc Bắc Bộ (25/11/1945), huấn thị với các đại biểu, Hồ Chí Minh phê bình: “Trong tổ chức thanh niên vẫn còn giữ một xu hướng chật hẹp, không bao bọc được nhiều giai tầng, không kéo được đại đa số thanh niên”. Vì lẽ đó, đến đầu năm 1946, Hồ Chí Minh chỉ thị phải hình thành Mặt trận đoàn kết thanh niên.

Năm 1950, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra sáng kiến thành lập các đơn vị thanh niên xung phong công tác mà Người cho rằng đây là nơi tập hợp rộng rãi các đối tượng thanh niên và là trường học thực tiễn của thanh niên. Do sáng kiến độc đáo của Người nên lúc đó các đơn vị thanh niên xung phong công tác còn có tên gọi là Thanh niên xung phong của Bác Hồ. Thanh niên xung phong đã tồn tại và phát triển, trở thanh nơi tập hợp đội viên hoạt động ở khắp các tỉnh, thành trong cả nước, đảm nhiệm những công việc ở nơi khó khăn gian khổ rất có hiệu quả, đồng thời là môi trường rèn luyện của nhiều thế hệ thanh niên nước ta.

Ba là, yêu cầu về hình thức và phương pháp đoàn kết, tập hợp các tầng lớp thanh niên.

Hồ Chí Minh yêu cầu tổ chức Đoàn các cấp: “Về phần mình, thì Đoàn cần phải nghiên cứu tìm ra những hình thức và phương pháp thích hợp để đoàn kết và tổ chức thanh niên một cách rộng rãi và vững chắc”. Theo Người, việc tìm tòi và ứng dụng có hiệu quả những hình thức, phương pháp thích hợp để đoàn kết, tập hợp các tầng lớp thanh niên là một quá trình nghiên cứu khoa học đòi hỏi tinh thần sáng tạo cũng như sự kiên trì, đặc biệt là đi sâu, đi sát thanh niên, hiểu được tâm tư, khát vọng của họ.

Bên cạnh việc tập hợp rộng rãi thanh niên tham gia, các hình thức, phương pháp phải có mục tiêu phấn đấu rõ ràng, có tính ổn định và triển vọng phát triển. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết là lực lượng mạnh nhất của chúng ta”, nghĩa là phát huy được lực lượng sẽ tạo ra sức mạnh. Người nhắc nhở cán bộ, đoàn viên “Phải thật thà đoàn kết và hợp tác với anh em thanh niên trong Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam”.

Bốn là, phải bảo đảm mối liên hệ thường xuyên, chặt chẽ, mật thiết giữa tổ chức đoàn với đông đảo thanh niên.

Điều kiện quyết định thắng lợi việc mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên theo quan điểm Hồ Chí Minh là: Muốn đoàn kết thì tất cả cán bộ, đoàn viên phải gương mẫu, phải giữ vững đạo đức cách mạng, phải khiêm tốn, cần cù, hăng hái, dũng cảm, “Phải xung phong trong mọi công tác; xung phong là đi trước, làm trước để lôi cuốn quần chúng, chứ không phải là xa rời quần chúng”. Và hơn thế muốn thực hiện đoàn kết, tập hợp đông đảo thanh niên, vấn đề sống còn của Đoàn là phải bảo đảm mối liên hệ chặt chẽ, mật thiết giữa tổ chức đoàn với đông đảo thanh niên, phải bồi dưỡng, đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và chất lượng đoàn viên với phương châm “trọng chất hơn lượng”.

Đoàn Thanh niên trước hết là tổ chức của những thanh niên tiên tiến, nhưng Đoàn lại là người đại diện lợi ích chính đáng của thanh niên vì vậy Đoàn cũng là tổ chức của thanh niên, vì thanh niên. Vì vậy, theo Người: “Trong hoàn cảnh nào, Đoàn Thanh niên phải củng cố và phát triển hơn nữa”, chính là do yêu cầu tự thân của Đoàn. Một tổ chức quần chúng, từ quần chúng mà ra thì mối liên hệ với quần chúng là điều kiện tiên quyết để tồn tại và phát triển. Đó là mối quan hệ được xem như là máu thịt.

Theo Hồ Chí Minh: “Muốn củng cố và phát triển, thì Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên. Phải quan tâm đến đời sống công tác, học tập của thanh niên”. Mối liên hệ này được thể hiện trên cả hai mặt: Vừa rộng rãi, tức là không bỏ sót một đối tượng nào, lại vừa chặt chẽ. Chặt chẽ ở đây chính là sự gắn bó mật thiết để hiểu được những gì thanh niên đang cần đến Đoàn, đang mong mỏi Đoàn và ngược lại. Nhưng cao hơn thế, không chỉ nắm được, hiểu được mà còn “Phải quan tâm đến đời sống, công tác và học tập của thanh niên”. Người đặt vấn đề đời sống lên trên bởi lẽ thanh niên là lớp người mới bước vào đời, mới bắt đầu xây dựng cho mình cuộc sống tự lập nên họ thường gặp rất nhiều khó khăn; họ cần tìm đến Đoàn như là người bạn đồng hành gần gũi nhất để có thể chia sẻ và giúp đỡ họ. Thanh niên cần được tạo điều kiện để học tập và làm việc. Học tập để tích lũy kiến thức và làm việc để cống hiến. Đó là hai vấn đề mà ở bất cứ ở đâu, hoạt động trên lĩnh vực nào, thanh niên đều cần được giúp đỡ.

Phần thứ hai

Cán bộ đoàn học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh gắn với việc xây dựng tổ chức đoàn vững mạnh; mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên.

1. Cán bộ đoàn phải tích cực, chủ động, sáng tạo tham gia xây dựng Đoàn vững mạnh

Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI đã xác định: “Xây dựng Đoàn vững mạnh về tư tưởng chính trị, tổ chức và hành động. Trong công tác xây dựng Đoàn, chất lượng cán bộ đoàn là trọng tâm, nâng cao chất lượng cơ sở đoàn là đột phá”. Như vậy, muốn đạt được mục tiêu trên, việc xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn các cấp có đủ số lượng và chất lượng là yêu cầu, đòi hỏi khách quan, tất yếu. Thực tiễn cho thấy, các hoạt động của tổ chức đoàn tốt hay kém, phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất, năng lực và trình độ của người cán bộ đoàn. Trong điều kiện mới hiện nay, quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở những tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể theo quy định của Đảng về công tác cán bộ, mỗi cán bộ đoàn cần xây dựng cho mình lộ trình và phương pháp rèn luyện khoa học, phù hợp với thực tiễn, mẫn cán, tận tụy, sâu sát cơ sở; dám nghĩ, dám làm, dấn thân và tiên phong thực hiện việc mới, việc khó.

Trước hết, muốn tổ chức đoàn vững mạnh thì bản thân mỗi cán bộ đoàn phải là tấm gương cho đoàn viên, thanh niên học tập. Cán bộ đoàn phải là hạt nhân tiêu biểu về phẩm chất chính trị; tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhân dân Việt Nam; kiên định mục tiêu và lý tưởng của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; xung kích đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân; đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định của cơ quan, đơn vị sử dụng lao động; gương mẫu chấp hành Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, sự phân công của tập thể lãnh đạo, ban thường vụ đoàn cùng cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đoàn cấp trên.

Những phẩm chất chính trị nêu trên, nhất là uy tín chính trị được thực hiện trong công việc và lối sống hàng ngày của cán bộ đoàn có tác động rất lớn, trực diện đến tư tưởng chính trị của đoàn viên, thanh niên. Cán bộ đoàn các cấp cần chủ động, kiên trì tham mưu với các cấp ủy đảng, với ban chấp hành, ban thường vụ đoàn các cấp đổi mới nội dung và phương thức tổ chức các hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng cho đoàn viên, thanh niên. Đổi mới việc học tập các bài lý luận chính trị cho đoàn viên; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, học tập trực tuyến, thi trực tuyến trên internet và mạng xã hội về các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên trì thực hiện và tham mưu tổ chức tốt các nghị quyết, kết luận, đề án, kế hoạch của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và Ban Bí thư Trung ương Đoàn về việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030… Những nội dung trên phải thường xuyên được thực hiện, trở thành nhiệm vụ tự thân của mỗi cán bộ đoàn. Chăm lo xây dựng phong trào, tạo ra những điểm mới, những mô hình hay, cách làm sáng tạo trong công tác giáo dục của Đoàn chắc chắn sẽ là tiền đề quan trọng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh thiếu nhi.

Trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 – Khóa XII của Đảng về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ” và Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, mỗi cán bộ đoàn, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu ngoài việc gương mẫu thực hiện nghiêm túc, chúng ta cần chủ động, sáng tạo tham mưu tổ chức nhiều chuỗi hoạt động chuyên sâu để thu hút, tập hợp đông đảo thanh thiếu nhi tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là các giải pháp bảo vệ và đấu tranh trên không gian mạng; tăng cường tương tác, trao đổi thông tin, duy trì và đẩy mạnh hoạt động của Câu lạc bộ Lý luận trẻ các cấp; tổ chức thường xuyên các đợt sinh hoạt chính trị, củng cố, bồi đắp niềm tin cho thế hệ trẻ đối với con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn.

Cán bộ đoàn phải giữ vững nguyên tắc hoạt động của tổ chức Đoàn; tham gia xây dựng tổ chức đoàn thông qua việc thực hiện nghiêm túc các quy định về xây dựng tổ chức bộ máy và công tác cán bộ đoàn. Tham mưu tăng cường các giải pháp để thực hiện tốt Kết luận số 08 – KL/TWĐTN-BTC ngày 5/3/2019 của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa XI về “Tăng cường các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tổ chức cơ sở đoàn trên địa bàn dân cư giai đoạn 2019 – 2022”; Kết luận số 07 – KL/TWĐTN – BTC ngày 14/2/2019 của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa XI về “Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác cán bộ đoàn giai đoạn 2019 – 2022”; Kết luận số 06 KL/TWĐTN-BKT, ngày 10/01/2019 của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn khoá XI về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 01 – CT/TWĐTN – BKT của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn khóa X về “Tăng cường rèn luyện tác phong, thực hiện lề lối công tác của cán bộ đoàn” và các quy định của Đảng, của Đoàn, của Nhà nước có liên quan về công tác xây dựng hệ thống chính trị và công tác cán bộ trong tình hình mới.

Muốn phát triển và xây dựng lực lượng cho tổ chức đoàn, cán bộ đoàn cần phải tham gia phát triển đoàn viên mới; đây là nhiệm vụ lớn, quan trọng của người cán bộ đoàn. Cùng với tổ chức của mình, cán bộ đoàn phải thật sự trở thành người định hướng, truyền cảm hứng, dẫn dắt, tổ chức các phong trào hành động cách mạng trong thanh thiếu nhi, qua đó phát hiện, giới thiệu và bồi dưỡng thanh niên, thiếu niên phấn đấu để trở thành đoàn viên. Tăng cường các hoạt động giáo dục bồi dưỡng giác ngộ về lý tưởng cách mạng của Đảng cho đoàn viên thanh niên, trong đó tập trung nâng cao trình độ lý luận chính trị, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh; chủ động, tích cực, sáng tạo thực hiện tốt “chương trình rèn luyện đoàn viên”, xây dựng đoàn cơ sở “3 chủ động”, giai đoạn 2018 – 2022; làm tốt công tác tham mưu trong việc thực hiện đúng quy trình việc bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp.

Cán bộ đoàn tích cực đại diện chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tuổi trẻ; phụ trách Đội TNTP Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt chính trị trong phong trào thanh niên và trong các tổ chức thanh niên Việt Nam. Triển khai các giải pháp thiết thực trong tập hợp và hỗ trợ thanh niên là người dân tộc thiểu số, thanh niên là tín đồ tôn giáo, thanh niên các khu công nghiệp, khu chế xuất, doanh nghiệp ngoài nhà nước và thanh niên Việt Nam ở nước ngoài; kết nối, phát huy tài năng trẻ trên các lĩnh vực, trí thức trẻ Việt Nam ở ngoài nước tham gia hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam gắn với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Cán bộ đoàn phải chủ động, xung kích, sáng tạo, không ngại khó, “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”, tích cực tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tham gia các phong trào, chương trình, hoạt động thực tiễn, tạo môi trường để đoàn viên, thanh niên tự giáo dục, rèn luyện và trưởng thành. Cán bộ đoàn phát huy đoàn viên, thanh niên xung kích, tình nguyện trong lao động, học tập, phấn đấu vươn lên để lập thân, khởi nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tổ chức triển khai có hiệu quả 3 phong trào hành động cách mạng: “Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc” và 3 chương trình đồng hành với thanh niên: “Đồng hành với thanh niên trong học tập”; “Đồng hành với thanh niên khởi nghiệp, lập nghiệp”; “Đồng hành với thanh niên rèn luyện và phát triển kỹ năng trong cuộc sống, nâng cao thể chất, đời sống văn hóa tinh thần”. Thông qua các phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ, cán bộ đoàn tiên phong thực hiện nhằm giúp cho đoàn viên, thanh thiếu nhi hiểu rõ được truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc, làm cho đoàn viên, thanh niên hiểu biết sâu sắc hơn những tấm gương thanh niên tiêu biểu, địa chỉ đỏ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để biết ơn các thế hệ cha anh đã hy sinh quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc.

2. Cán bộ đoàn tích cực nghiên cứu, đề xuất giải pháp đổi mới nội dung, phương thức để tập hợp, đoàn kết thanh niên

Để tập hợp, đoàn kết thanh niên một cách rộng rãi và bền vững, cán bộ đoàn cần phát huy vai trò xung kích trong việc tìm những nội dung, phương thức mới, sinh động, có hiệu quả nhằm khích lệ tinh thần tham gia vào tổ chức cũng như các hoạt động của đoàn viên, thanh niên.

Cán bộ đoàn cần nghiên cứu, phát động và duy trì các chương trình hành động, cuộc vận động theo hướng tập trung, thiết thực, bền vững, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới, phù hợp khả năng, nguyện vọng chính đáng của thanh niên.

Xây dựng cơ chế phối hợp để thể hiện rõ hơn nữa vai trò nòng cốt chính trị của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tăng tính đoàn kết, tính liên hiệp của các tổ chức thành viên. Các tổ chức của thanh niên Việt Nam là mặt trận xã hội rộng rãi, là cánh tay nối dài của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong tập hợp, định hướng, dẫn dắt hoạt động phong trào thanh niên. Các tổ chức của thanh niên Việt Nam cần đa dạng các hình thức tập hợp thanh niên, tiếp cận và tổ chức các nội dung, hoạt động hỗ trợ phù hợp với từng đối tượng thanh niên, xuất phát từ các nhu cầu cơ bản của thanh niên.

Quan tâm triển khai phương thức tập hợp thanh niên trên không gian mạng theo hướng xây dựng, hoàn thiện và kết nối các nhóm của các chi đoàn, đoàn cơ sở, các câu lạc bộ của thanh niên theo sở thích, ngành nghề, xu thế mới trên không gian mạng. Từ đó, tạo môi trường thông tin lành mạnh, các sân chơi hấp dẫn trên mạng, từng bước khai thác các ứng dụng, tiện ích của các mạng xã hội đang có số lượng thành viên đông để truyền tải thông tin, nắm bắt dư luận, kịp thời định hướng, giáo dục cho thanh niên. Phát huy ưu thế của các phương tiện truyền thông hiện đại, đa phương tiện, sử dụng có hiệu quả các hình thức, công cụ giáo dục mới như Internet, mạng xã hội. Theo hướng tích cực, nhiều bạn trẻ đã lập ra những facebook nhóm, những câu lạc bộ trên mạng xã hội để cùng nhau quyên góp, ủng hộ những hoàn cảnh thiếu may mắn; chung tay hành động vì môi trường; hay chia sẻ những câu chuyện bổ ích, kinh nghiệm sống… để bồi đắp thêm những giá trị tinh thần tốt đẹp, giúp nhau cùng hướng thiện và vươn lên. Đây chính là điểm thuận lợi trong công tác đoàn kết, tập hợp cũng như định hướng, giáo dục tư tưởng cho thanh niên. Có thể thấy, mạng xã hội chính là phương tiện hữu ích để tiếp cận với thanh niên trong thời đại mới. Các cán bộ đoàn, hội chủ động tiếp cận với mạng xã hội có số lượng thành viên đông đảo để truyền tải thông tin và định hướng giáo dục cho thanh niên, thu hút thanh niên tham gia vào các hoạt động xã hội, tình nguyện vì cộng đồng.

Hiện nay, đang xuất hiện những câu lạc bộ, đội nhóm tự phát tập hợp nhau trên mạng, theo hội đồng hương, theo sở thích, theo nhu cầu và tổ chức các hoạt động; có những hoạt động được tài trợ của các Doanh nghiệp, các tổ chức Phi Chính phủ. Cán bộ đoàn, hội cần chủ động, tích cực tiếp cận, nắm các thủ lĩnh để đưa họ vào “không gian” hoạt động của Đoàn, Hội.

Cán bộ đoàn triển khai có hiệu quả công tác mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên theo chương trình công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi năm 2020: (1) Xây dựng mô hình điểm, nhân rộng cách làm hay trong thực hiện chủ trương mỗi đoàn viên giúp đỡ ít nhất một thanh niên tham gia Đoàn, Hội (chủ trương 1+1). Tổ chức các hoạt động tập hợp, hỗ trợ và chăm lo thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên tín đồ tôn giáo, thanh niên các khu công nghiệp, khu chế xuất, doanh nghiệp ngoài nhà nước và thanh niên Việt Nam ở nước ngoài. (2) Tập trung theo dõi, hướng dẫn cơ sở nắm bắt số lượng đoàn viên, hội viên, thanh niên tại địa phương, đơn vị; thống kê chính xác tỷ lệ đoàn kết tập hợp thanh niên. Định kỳ rà soát, hướng dẫn, đề xuất giải pháp nâng cao tỷ lệ đoàn kết tập hợp thanh niên tại các địa bàn, đối tượng tỷ lệ đạt thấp. (3) Củng cố tổ chức, chấn chỉnh hoạt động Hội cấp huyện, cấp cơ sở. Tổ chức các hoạt động phù hợp với từng đối tượng thanh niên, xuất phát từ các nhu cầu cơ bản của thanh niên. Tập trung phát triển các câu lạc bộ, tổ, đội, nhóm theo ngành nghề, sở thích tại các địa bàn chưa có cơ sở đoàn, hội phù hợp với tình hình thực tế địa bàn, khu vực và bản sắc tín ngưỡng, điều kiện, hoàn cảnh của thanh niên. Kết nối hoạt động với các tổ chức thanh niên trong nước có tôn chỉ mục đích phù hợp với mục tiêu của Hội. (4) Tiếp tục xây dựng, củng cố lực lượng cốt cán trong thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên tín đồ tôn giáo.

3. Cán bộ đoàn cần xây dựng phương pháp làm việc dân chủ, khoa học, sáng tạo, gương mẫu, tận tụy, gần gũi, gắn bó mật thiết với thanh niên
Cán bộ đoàn phải có phong cách làm việc dân chủ, gần gũi, gắn bó mật thiết với thanh niên. Theo Hồ Chí Minh, “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái” ba điều này có mối quan hệ gắn bó nhau. Dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng hăng hái, và người khác cũng học theo. Vì vậy, học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo gần dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, cán bộ đoàn không nên tự kiêu, tự đại, mà phải lắng nghe, phải hỏi ý kiến của thanh niên. Phong cách lãnh đạo gần thanh niên, gắn bó mật thiết với thanh niên của cán bộ đoàn làm cho thanh niên mạnh dạn chia sẻ tâm tư, nguyện vọng, tích cực đề ra ý kiến đóng góp. Cán bộ đoàn, để lãnh đạo được đoàn viên xây dựng tổ chức đoàn vững mạnh phải gần thanh niên, được lòng thanh niên, lắng nghe ý kiến đóng góp của thanh niên, không được xa thanh niên có như vậy mới lãnh đạo được thanh niên. Để thực hiện tốt, cán bộ đoàn phải tăng cường nắm bắt tình hình thực tiễn cơ sở; thực hiện hiệu quả chủ trương “1 + 2”(cán bộ đoàn cấp trung ương và cấp tỉnh 1 năm tối thiểu có 2 tháng công tác tại cơ sở).

Cán bộ đoàn cần xây dựng phương pháp làm việc khoa học, sáng tạo, gương mẫu, tận tụy – Nói đi đôi với làm. Đời sống kinh tế – xã hội luôn vận động và biến đổi không ngừng, theo đó nhu cầu, nguyện vọng, tâm tư, tình cảm của thanh niên cũng không ngừng thay đổi. Đặc biệt, trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, internet và mạng xã hội như hiện nay, đã chi phối, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều cấu trúc văn hóa truyền thống của dân tộc, làm cho một bộ phận thanh thiếu nhi có lối sống thực dụng, sống ảo, cuồng thần tượng… Để góp phần cùng với Đảng và hệ thống chính trị làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam vừa hồng, vừa chuyên; sống có lý tưởng, giàu lòng yêu nước, yêu truyền thống văn hóa dân tộc… đòi hỏi người cán bộ đoàn phải không ngừng sáng tạo, đổi mới cách nghĩ, cách làm phong trào; kiên trì với những định hướng lớn, nhưng linh hoạt trong phương thức triển khai với tinh thần “dĩ bất biến – ứng vạn biến”. Khi triển khai các hoạt động cần nắm chắc tình hình cụ thể, tăng cường tham vấn, xin ý kiến của các cấp, các ngành, đặc biệt là ý kiến của đoàn viên, thanh niên; việc xây dựng và tổ chức hoạt động phải gắn với tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của thanh niên. Người cán bộ đoàn cần phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong mọi hoạt động; gần gũi, quan tâm, lắng nghe, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của thanh thiếu nhi để kịp thời uốn nắn lệch lạc, phát huy điểm mạnh của họ.

Một trong những vấn đề quan trọng nhất của người cán bộ đoàn đó là tính nêu gương, nói đi đôi với làm, ngoài việc vận động, thuyết phục đoàn viên, thanh niên làm theo, người cán bộ đoàn phải là người tiên phong đi đầu, dấn thân, bám sát công việc, tránh nói mà không làm, hoặc “nói hay mà làm dở, chỉ xoay xở để làm lãnh đạo” sẽ mất uy tín và không thể dẫn dắt, định hướng cho đoàn viên, thanh niên làm theo. Tiếp tục kiên trì phong cách cán bộ đoàn “Sáng tạo, trách nhiệm, tiên phong, gương mẫu, sâu sát cơ sở” theo tinh thần chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2018 và xây dựng phong cách làm việc “Phát huy dân chủ, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của thanh thiếu nhi” theo tinh thần chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2019 do Ban Bí thư Trung ương Đoàn ban hành.

Tăng cường công tác giáo dục ý thức trách nhiệm, tính nêu gương, gương mẫu của cán bộ đoàn, hội, đội, nhất là cán bộ chủ chốt từ Trung ương đến cơ sở, thông qua việc chỉ đạo thực hiện nghiêm Kết luận số 06 KL/TWĐTN-BKT, ngày 10/01/2019 của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn khoá XI về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 01 – CT/TWĐTN – BKT của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn khóa X về “Tăng cường rèn luyện tác phong, thực hiện lề lối công tác của cán bộ đoàn” quy định 8 điều “nên làm” và 8 điều “không nên làm” đối với cán bộ đoàn theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Cán bộ đoàn phải có phương pháp dân vận khéo. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm, coi trọng công tác dân vận. Trong tác phẩm “Dân vận”, Người viết “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Cán bộ đoàn là cán bộ hoạt động chính trị- xã hội được Đảng giao nhiệm vụ công tác vận động thanh, thiếu nhi, trực tiếp thực hiện công tác vận động tuyên tuyền giáo dục thanh thiếu niên theo đường lối giáo dục chính sách của Đảng, Nhà nước và Điều lệ Đoàn. Học tập và làm theo phong cách dân vận Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ đoàn cần phải: “…óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”. Cán bộ đoàn trong xây dựng tổ chức đoàn vững mạnh; mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên cần phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, phân chia công việc rõ rệt, giải thích cho thanh niên hiểu, cổ động thanh niên, giúp thanh niên lên kế hoạch tổ chức, sắp xếp việc làm, theo dõi, giúp đỡ thanh niên giải quyết những khó khăn, vướng mắc.

Hiện nay, toàn Đoàn đang triển khai cuộc vận động xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Việt Nam giai đoạn 2018 – 2022 với 03 tiêu chí nền tảng “Tâm trong – Trí sáng – Hoài bão lớn” và 12 tiêu chí cụ thể: (1) Có lý tưởng cách mạng, (2) Bản lĩnh vững vàng, (3) Giàu lòng yêu nước, (4) Đạo đức trong sáng, (5) Lối sống văn hóa, (6) Tuân thủ pháp luật, (7) Tiên phong hành động, (8) Sáng tạo không ngừng, (9) Học tập liên tục, (10) Có sức khỏe tốt, (11) Kỹ năng phù hợp, (12) Khát vọng vươn lên. Để cuộc vận động thành công, đội ngũ cán bộ đoàn các cấp cần phải nỗ lực, phấn đấu, rèn luyện và kiên trì thực hiện nhiều giải pháp, trong đó việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh; mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên có vai trò rất quan trọng; việc học tập và vận dụng tốt chuyên đề trong thực tiễn sẽ góp phần thiết thực xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn các cấp có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng với yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao trong chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

3. Tài liệu học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 2022 cho đoàn viên

Phần thứ nhất

Tư tưởng và tấm gương mẫu mực của hồ chí minh về tu dưỡng đạo đức suốt đời

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, song cuộc đời, sự nghiệp của Người là một mẫu mực của đạo đức cách mạng, luôn thống nhất giữa lời nói và việc làm, đặc biệt là tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức suốt đời. Người luôn khẳng định đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng và rèn luyện đạo đức cách mạng là nhu cầu tự thân; đồng thời là yêu cầu tất yếu đối với mỗi người. Người không chỉ nêu ra, yêu cầu mỗi người phải rèn luyện đạo đức cách mạng, mà suốt cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức mà “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.

1. Những quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về đạo đức

Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan niệm mới, tiến bộ về đạo đức của con người mới. Đó là: Thứ nhất, đạo đức là gốc, là nền tảng của con người. Người coi, đạo đức của con người như trời có bốn mùa, đất có bốn phương,con người có bốn đức “cần, kiệm, liêm, chính”; Thứ hai, đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân: “Vô luận chung trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”; Thứ ba, gần gũi với quần chúng nhân dân: “đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu…”; Thứ tư, không ngừng học tập lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin: “Học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là học cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”. Như vậy, đạo đức cách mạng chính là nội hàm bao trùm, xuyên suốt để mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên tu dưỡng và rèn luyện.

2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về tư dưỡng đạo đức suốt đời

Suốt đời tu dưỡng rèn luyện đạo đức để thấm nhuần và thực hành đạo đức cách mạng, đây vừa là nguyên tắc, vừa là phương pháp trong xây dựng đạo đức mới. Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức như một cuộc cách mạng trường kỳ, gian khổ. Mỗi người phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời. Việc tu dưỡng đạo đức của mỗi người phải được thực hiện qua hoạt động thực tiễn, thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao.

Một là, việc tu dưỡng đạo đức phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài, suốt cả cuộc đời.

Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên, chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đó cũng là công việc phải làm kiên trì, bền bỉ suốt cả cuộc đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Do không chú ý điều này, nên có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song, đến khi có ít quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác mà biến thành người có tội với cách mạng. Từ đó, Người đi đến kết luận khái quát: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu xa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên trong khi ta kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, làm cho văn minh chiến thắng bạo tàn thì đồng thời phải loại trừ những cái xấu xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và trong mỗi con người”.

Trong giáo dục đạo đức cho cán bộ, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tu dưỡng đạo đức là một quá trình đấu tranh quyết liệt, lâu dài trong nội tâm của mỗi con người. Vì thế, việc rèn luyện đạo đức đòi hỏi mỗi cán bộ phải có dũng khí đấu tranh với chính mình và phải kiên trì bền bỉ, nỗ lực tu dưỡng suốt đời. Hồ Chí Minh chỉ dẫn một cách sâu sắc về cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài này. Trong bài nói tại Lớp chính Đảng Trung ương khóa 2 (tháng 3/1953), Người ví trong bản thân mỗi con người đều có “hai phe: một phe thiện và một phe ác. Hai phe cùng đấu tranh với nhau. Nếu đấu tranh để phe thiện thắng thì phe ác phải bại. Nếu không đấu tranh mà để cho phe thiện bại, thì là hỏng.

Hai là, việc tu dưỡng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người.

Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người. Hồ Chí Minh cho rằng đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có cái thiện, cái ác ở trong mình. Điều quan trọng là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy được cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy được cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Hồ Chí Minh luôn quan tâm, phải làm thế nào để mọi người tự nhận thấy việc tu dưỡng đạo đức cách mạng là một việc phải kiên trì, thường xuyên, liên tục. Người nhắc lại luận điểm của Khổng Tử là “chính tâm, tu thân” để “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, và chỉ rõ: “Chính tâm, tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi con người. Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới không phải là việc dễ dàng… Dù khó khăn gian khổ, nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công”[7]. Nếu người cán bộ cách mạng không làm được như vậy, thì ở thời kỳ này giữ được đạo đức trong sáng, nhưng đến thời kỳ khác lại có thể thoái hóa, biến chất, hư hỏng.

Trong giáo dục đạo đức cho cán bộ, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tu dưỡng đạo đức là một quá trình đấu tranh quyết liệt, lâu dài trong nội tâm của mỗi con người. Đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng con người và đó là đạo đức của những con người được giải phóng. Vì vậy, sự tu dưỡng phải xuất phát từ lương tâm của mỗi người, hướng tới mục tiêu phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Không vượt qua được chính mình, không chiến thắng được giặc trong lòng thì không thể có đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm bón cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”.

Ba là, tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện thông qua các hoạt động thực tiễn của mỗi người.

Theo Hồ Chí Minh, đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như đời công – sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu; trong mọi mối quan hệ từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn – gia đình, nhà trường, xã hội; từ quan hệ bạn bè, đồng chí, anh em đến quan hệ tập thể, với cấp trên cấp dưới, với Đảng, với nước, với dân và cả trong các mối quan hệ quốc tế.

Trong cuộc sống, mỗi người có nhiều cương vị, nhiều vai trò khác nhau đòi hỏi phải điều chỉnh hành vi của mình, và phẩm chất đạo đức của mỗi người được thể hiện rất cụ thể, phong phú và đa dạng. Thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua quá trình tu dưỡng rèn luyện công phu mới có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp và phẩm chất ấy ngày càng được bồi đắp, nâng cao, hoàn thiện. Bài học đó đã được Hồ Chí Minh đúc kết ở 4 câu thơ:

“Gạo đem vào giã bao đau đớn,

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông;

Sống ở trên đời người cũng vậy,

Gian lao rèn luyện mới thành công.”

3. Hồ Chí Minh tấm gương tu dưỡng đạo đức suốt đời

Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về sự tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức bền bỉ, kiên trì. Điều đó được người chứng minh bằng chính cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Với ý chí, nghị lực luôn tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh trở thành tấm gương của “Kiên trì và nhẫn nại. Không chịu lùi một phân. Vật chất tuy đau khổ. Không nao núng tinh thần”[10].

Ra đời trong hoàn cảnh nghèo khó của quê hương Nghệ An, Người không bao giờ nghĩ riêng cho mình một cuộc đời sung sướng. Người thấu hiểu nỗi nhục mất nước, mất tự do và nghèo khó của đồng bào, càng nung nấu quyết tâm giải phóng cho đất nước. Những ngày xa Tổ quốc cũng là những ngày nay đây mai đó, trải qua nhiều nghề vất vả từ anh phụ bếp, đốt lò đến người thợ rửa ảnh, nhà báo… Nhưng nghèo khổ không chuyển lay được lòng Người. Bị kết án tử hình và trải qua ba mươi nhà tù nhưng không uy vũ nào khuất phục được Người; Thân thể ở trong lao, nhưng tinh thần Người vẫn ở ngoài lao, hướng về Tổ quốc và tinh thần sắt đá vào thắng lợi của cách mạng. Đói rách, bệnh tật, Người vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan và nằm ngủ với “sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”.

Cuộc đời của Người, từ khi còn bôn ba ở nước ngoài, đến khi làm Chủ tịch nước vẫn giữ một cuộc đời thanh đạm, giản dị, trong sạch. Hành lý vị Chủ tịch nước sang dự hội nghị đàm phán với Chính phủ Pháp năm 1946 chỉ xếp gọn trong chiếc vali nhỏ với hai bộ quần áo. Tài sản riêng của Người để lại cho chúng ta hiện nay cũng chỉ có hai bộ kaki, đôi dép cao su, cái quạt giấy đã cũ, chiếc đồng hồ mặt đá đã mờ…

Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học mẫu mực, sáng ngời trong việc nâng cao đạo đức cách mạng “Cần – Kiệm – Liêm – Chính – Chí công vô tư”, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức trách nhiệm, phục vụ nhân dân, đấu tranh, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, lãng phí. Là người đứng đầu Ðảng và Nhà nước nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi quyền lực thuộc về nhân dân và do nhân dân ủy thác. Còn mình thì như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận, “bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suốt đời không ngừng tự tu dưỡng, tự rèn luyện mình để trở thành“tấm gương sáng ngời về con người mới”, thành hình ảnh mẫu mực về “người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” chẳng những có sức lôi cuốn, cảm hóa mãnh liệt đối với toàn thể dân tộc, mà còn ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới.

Phần thứ hai

Thanh niên việt nam học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh gắn với tu dưỡng đạo đức suốt đời

Với quan điểm đạo đức là gốc của người cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thanh niên. Người thường xuyên động viên tuổi trẻ tu dưỡng đạo đức, không ngừng học tập vươn lên để xứng đáng là người chủ tương lai của nước nhà. Trong lần nói chuyện với thanh niên tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ II ngày 7/5/1958, Người nhấn mạnh: “Thanh niên bây giờ là một thế hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác tự nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của mình. Tức là thanh niên phải có đức, có tài”. Trong Di chúc thiêng liêng của mình, ngay sau phần nói về Đảng, Người đã căn dặn: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Với tầm nhìn của một lãnh tụ thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những điểm mạnh, điểm yếu của thanh niên và vai trò đặc biệt quan trọng của thanh niên đối với tương lai, vận mệnh của dân tộc. Thanh niên chính là lực lượng đông đảo, năng động, sáng tạo, giàu nghị lực, khát vọng và ý chí vươn lên. Tuy nhiên, do tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm sống chưa có nhiều, nên thường hay vấp ngã, sai lầm, Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị phải thường xuyên chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cách mạng, phẩm chất và năng lực cho thanh niên. Đối với thanh niên, việc học tập, tu dưỡng đạo đức suốt đời phải trở thành việc làm thường xuyên, tự thân, tự giác. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức trong giai đoạn hiện nay, thanh niên cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề chủ yếu sau đây:

1. Thanh niên cần xác định rõ những nội dung tu dưỡng, rèn luyện đạo đức trong tình hình hiện nay

Trong mỗi giai đoạn cách mạng, nội hàm đạo đức để thanh niên Việt Nam tu dưỡng và rèn luyện đều có những yêu cầu cụ thể khác nhau. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nội hàm đạo đức căn bản của thanh niên trong xã hội mới – xã hội chủ nghĩa chính là đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Người nhấn mạnh: “Nói chung thanh niên phải chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hóa, trước hết phải rèn luyện và thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, gột rửa cá nhân chủ nghĩa”. Thanh niên phải luôn đề phòng, để tránh không rơi vào “chủ nghĩa cá nhân”; “chủ nghĩa cá nhân” sẽ đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm, như: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, coi thường tập thể, tự cao tự đại, độc đoán chuyên quyền. Đó “là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”. Tựu chung lại, theo tư tưởng của Người, đạo đức cách mạng của thanh niên được thể hiện ở các chuẩn mực khái quát sau: “Trung với nước, hiếu với dân; Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Tinh thần quốc tế trong sáng”. Các chuẩn mực đạo đức trên có mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau trong suốt quá trình rèn luyện của mỗi thanh niên. Yêu cầu khách quan đòi hỏi mọi thanh niên phải tu dưỡng, rèn luyện toàn diện các chuẩn mực đạo đức cách mạng, không được coi nhẹ chuẩn mực nào.

Từ nhiều năm qua, để cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong công tác chăm lo, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều văn bản chỉ đạo với nhiều nhóm giải pháp đồng bộ và toàn diện. Trong đó, việc xây dựng các tiêu chí, chuẩn mực đạo đức của thanh niên Việt Nam thời kỳ mới được đặc biệt quan tâm. Năm 2013, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã triển khai Cuộc vận động “Xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Việt Nam thời kỳ mới” với 03 tiêu chí nền tảng: “Tâm trong – Trí sáng – Hoài bão lớn” và được cụ thể hóa thành 12 tiêu chí cụ thể theo Kế hoạch số 131-KH/TWĐTN-BTG ngày 28/12/2018 của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn khóa XI, đó là: (1) Có lý tưởng cách mạng, (2) Bản lĩnh vững vàng, (3) Giàu lòng yêu nước, (4) Đạo đức trong sáng, (5) Lối sống văn hóa, (6) Tuân thủ pháp luật, (7) Tiên phong hành động, (8) Sáng tạo không ngừng, (9) Học tập liên tục, (10) Có sức khỏe tốt, (11) Kỹ năng phù hợp, (12) Khát vọng vươn lên.

Như vậy, nội dung đạo đức bao trùm để thanh niên Việt Nam tu dưỡng, rèn luyện trong giai đoạn hiện nay chính là “Tâm trong – Trí sáng – Hoài bão lớn”, trong đó,“Tâm trong” được xác định là căn bản trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của thanh niên. “Tâm trong” là nói đến nhân cách, bản lĩnh chính trị. Người thanh niên có “Tâm trong”được biểu hiện ở 10 điểm căn bản như sau:

– Có tinh thần yêu nước, sẵn sàng cống hiến, hy sinh vì sự phát triển phồn thịnh của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.

– Luôn vững niền tin, sắt son với mục tiêu độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn.

– Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

– Luôn có nhận thức và thái độ chính trị đúng đắn, quan tâm đến các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.

– Luôn hướng tới những giá trị nhân văn cao cả trong cuộc sống, rèn luyện cho mình lối sống trong sạch, giản dị, lương thiện, thủy chung, biết thương yêu, chia sẻ, kính trên, nhường dưới.

– Luôn sống hướng thiện,ham học hỏi, ham hiểu biết, sống có nghĩa, có tình; không tham lam, kiêu ngạo, chạy theo danh lợi.

– Trung thực, dũng cảm, trách nhiệm, nói đi đôi với làm.

– Khi tiếp xúc, làm việc với nhân dân và thanh thiếu nhi phải cầu thị và chuẩn mực.

– Có tinh thần quốc tế trong sáng, cao cả.

– Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; phê phán những thói hư, tật xấu; thường xuyên tự phê bình và phê bình… để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Nhận diện rõ những nội hàm đạo đức nêu trên, gắn với việc học tập và làm theo tấm gương mẫu mực về tu dưỡng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là quan điểm của Người về “Cần – Kiệm – Liêm – Chính – Chí công vô tư”giúp mỗi thanh niên Việt Nam xác định được mục tiêu, khung giá trị đạo đức mà mình cần hướng tới, từ đó có kế hoạch, phương pháp và cách thức rèn luyện, tu dưỡng phù hợp.

2. Thanh niên nhận thức rõ tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cần được tiến hành thường xuyên, liên tục, suốt cả cuộc đời

Trong tình hình hiện nay, do tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và mặt trái của kinh tế thị trường, còn một bộ phận thanh niên đang mải mê theo đuổi những giá trị vật chất thấp kém, tầm thường mà quên đi trách nhiệm, nghĩa vụ lớn lao của mình đối với Tổ quốc, với non sông đất nước. Thói quen đua đòi, hưởng thụ, chạy theo những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội và cả “những tấm gương xấu”; sa vào lối sống ảo, cuồng thần tượng; sống thiếu lý tưởng, không có niềm tin, không có sự định hướng một cách đúng đắn. Vì vậy, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết và quan trọng, đòi hỏi thanh niên luôn phải đấu tranh, rèn luyện đạo đức bền bỉ, hàng ngày.

Mặt khác, đạo đức cách mạng không phải là cái có sẵn, không phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của sự đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày của mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đường đời là một chiếc thang không có nấc chót; học tập là một quyển vở không có trang cuối cùng”. Bác Hồ đặt ra yêu cầu “Thanh niên phải luôn luôn rèn luyện đạo đức cách mạng”. Nghĩa là mỗi đoàn viên, thanh niên phải tự giác rèn luyện, không ngừng học tập nâng cao trình độ, gương mẫu xung phong trong mọi công việc. Đoàn viên, thanh niên – những người đang trong quá trình tích lũy tri thức và hình thành nhân cách, thì tự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người “phải được tiến hành thường xuyên như đánh răng, rửa mặt hàng ngày”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao tính tự giác trong tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của thanh niên. Theo Người, phẩm chất đạo đức là giá trị riêng có của từng người, không thể vay mượn, càng không phải chỉ là những lời nói cửa miệng về đạo đức. Vì vậy, thanh niên nhận thức được sự cần thiết xây dựng tinh thần tự giác trong tự học tập, tư dưỡng, rèn luyện đạo đức thường xuyên, liên tục là biện pháp quan trọng giúp họ nhanh chóng tiến bộ, trưởng thành. Việc tự tu dưỡng của thanh niên là hoạt động tự giác, tích cực của mỗi thanh niên hướng vào nhận thức và hoàn thiện những phẩm chất của bản thân mình phù hợp với chuẩn mực đạo đức cách mạng. Đây là hoạt động tự kiểm tra, đánh giá, tự thẩm định và điều chỉnh hành vi đạo đức để hình thành những hành vi đạo đức tích cực cũng như những phẩm chất nhân cách cần phải có ở mỗi thanh niên.

Hoạt động tự học tập, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng mang tính chủ thể rất cao của mỗi thanh niên. Do đó, thanh niên cần hình thành nhu cầu hoàn thiện bản thân và thường xuyên bồi dưỡng năng lực tự tu dưỡng, tự rèn luyện đạo đức cách mạng. Khi thanh niên thường xuyên tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức và tạo ra được nhu cầu tự thân thì thanh niên sẽ có tính tự giác rất cao trong việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.

Yêu cầu của tính tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của thanh niên theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là sự tích cực phấn đấu vươn lên không ngừng để hoàn thiện phẩm chất đạo đức cách mạng của mình. Để thực hiện thanh niên phải có lý tưởng sống vì Tổ quốc, vì nhân dân; kiên quyết vượt qua mọi khó khăn thử thách, luôn xung phong, gương mẫu trong mọi công việc, hoàn thành mọi nhiệm vụ, thực hiện khẩu hiệu: “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”; và: “Đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm”. Hồ Chí Minh căn dặn, mỗi người thanh niên phải luôn suy nghĩ về nhiệm vụ của mình trước Tổ quốc, trước nhân dân: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?”[16]. Mỗi thanh niên phải xác định rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân, sống có lý tưởng, có hoài bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ. Bản thân mỗi người tự giác rèn luyện, biết tự kiềm chế, biết vượt qua những cám dỗ và tiêu cực xã hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng, lợi mình hại người. Thanh niên cần phải tự tin vào chính mình, giữ vững niềm tin trong cuộc sống, vào các giá trị chân, thiện, mỹ; vượt qua mọi khó khăn gian khổ như Hồ Chí Minh đã dạy: “gian nan rèn luyện mới thành công”.

Mỗi thanh niên phải luôn có tinh thần cầu thị, luôn nghiêm khắc trong tự phê bình, tích cực sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm của mình. Sự cầu thị của thanh niên cần biểu hiện ở thái độ nghiêm túc lắng nghe ý kiến của bạn bè, đồng chí, anh em, của tập thể, cơ quan, đơn vị… về bản thân mình để kịp thời điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Thanh niên phải luôn tích cực, chủ động trong kiểm tra nhận thức thái độ, hành vi hàng ngày của mình trên cơ sở của tự phê bình để thấy rõ được những ưu, khuyết điểm so với chuẩn mực đạo đức cách mạng; ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm để không ngừng hoàn thiện mình. Có như vậy, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của thanh niên theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mới đạt được mục tiêu đề ra.

3. Mỗi đoàn viên, thanh niên gắn việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức với thực tiễn hoạt động học tập, lao động, công tác, trong các mối quan hệ của bản thân

Việc tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức đòi hỏi thanh niên phải biết rèn luyện mình trong thực tiễn xã hội. Thanh niên thời đại Hồ Chí Minh cần phải đắm mình trong thực tiễn, chủ động tham gia các hoạt động chính trị – xã hội do tổ chức Đoàn, Hội các cấp tổ chức; quan tâm thường xuyên đến công việc của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị; tránh tình trạng “nhạt đảng, khô đoàn, xa rời chính trị”. Thực tiễn xã hội rất phong phú và là nơi kiểm nghiệm quan điểm, lý luận và mọi hiện tượng, sự vật trong cuộc sống; là nơi con người được thử thách, được rèn luyện nhiều mặt. Chỉ có qua thực tiễn thanh niên mới có thể từng bước bồi đắp được nhận thức của mình về các vấn đề chính trị, đạo đức mà mình đã được học, qua đó củng cố, nâng cao nhận thức.

Thực tiễn tu dưỡng, rèn luyện của thanh niên là thực tiễn trong học tập, lao động, công tác và được thể hiện trong ba mối quan hệ đối với mình, đối với việc và đối với người:

– Đối với mình: Mỗi thanh niên xây dựng cho mình tinh thần yêu nước, tư tưởng trung với nước, hiếu với dân, thương dân, hết lòng phục vụ để được dân tin yêu, quý mến, để trở thành những người có phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

– Đối với người, cụ thể là quan hệ với cấp trên và cấp dưới: “Chớ nịnh hót người trên, chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà, đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới”. Đặc biệt, trong quan hệ với nhân dân phải hết sức chú ý. Hồ Chí Minh nói: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.

– Đối với việc: Để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân. Với việc: “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.

Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cần được thanh niên thực hiện với nhiều hình thức, phương thức khác nhau, trong đó việc chủ động tham gia các phong trào hành động cách mạng của các cấp bộ đoàn, hội đang triển khai theo từng nhóm đối tượng có vai trò hết sức quan trọng, vừa giúp cho thanh niên hoàn thiện được những phẩm chất đạo đức chung của thanh niên Việt Nam, vừa xây dựng được những đặc trưng đạo đức riêng có của mình. Cụ thể:

– Đối với thanh niên học sinh, sinh viên phải chú trọng sự tự giác tu dưỡng, rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn trên ghế nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn, thanh niên là học sinh, sinh viên tự nhận thức được cái hay, cái tốt, cái thiện cũng như cái chưa tốt, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục. Từ đó, mà sống có lý tưởng, thấy rõ được mục đích, ý nghĩa cao đẹp của cuộc sống; đem tài năng, trí tuệ của mình để phục vụ cho bản thân và cho xã hội. Đồng thời, thanh niên là học sinh, sinh viên chú trọng bồi dưỡng tình cảm yêu thương con người, phải luôn xác định đây là một trong những chuẩn mực đạo đức cao đẹp của người cách mạng, của con người có nhân cách tốt, có đạo đức.

+ Thanh niên học sinh trung học phổ thông học tập, rèn luyện để có tri thức phổ thông, có kỹ năng thực hành xã hội, có kiến thức pháp luật; tích cực phấn đấu đạt danh hiệu “Học sinh 3 tốt”. Thanh niên học sinh các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề rèn luyện thái độ nghề nghiệp, rèn luyện tác phong công nghiệp, rèn luyện kỷ luật lao động; phấn đấu đạt danh hiệu “Học sinh 3 rèn luyện”.

+ Thanh niên sinh viên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức tốt, học tập tốt, thể lực tốt, tình nguyện tốt, hội nhập tốt; phấn đấu đạt danh hiệu “Sinh viên 5 tốt”. Từ sống có lý tưởng, có tình thương yêu con người sẽ dẫn đến những hành động tích cực, thiết thực cho bản thân, cho mọi người, cho xã hội, đó cũng chính là đích đến để mỗi thanh niên sinh viên, học sinh luôn có “Tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn”.

– Đối với thanh niên công chức, viên chức, thực tiễn là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước (hoạt động gắn với nhà nước hoặc nhân danh nhà nước) do các công chức, viên chức nhà nước tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước và xã hội. Vì vậy, thanh niên công chức, viên chức cần phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức công vụ, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, tận tụy, cầu thị, sáng tạo. Tích cực đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu, có thái độ hách dịch, cửa quyền, cách cư xử vô cảm khi giải quyết công việc với người dân. Tiếp tục triển khai phong trào “Ba trách nhiệm” trong cán bộ, công chức; góp phần tạo môi trường để cán bộ, công chức, viên chức trẻ tự giác rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, phấn đấu học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu công tác trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời phát huy vai trò của tổ chức Đoàn trong xây dựng lớp cán bộ, công chức, viên chức trẻ yêu nước, nhiệt tình, trách nhiệm, năng động sáng tạo.

– Đối với thanh niên trên địa bàn dân cư và thanh niên công nhân cần có tinh thần vượt khó, cần cù; sáng tạo, dám nghĩ, dám làm; sản xuất, kinh doanh giỏi; tự tin, cầu thị; vì cộng đồng; đóng góp cho sự phát triển kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng địa phương, doanh nghiệp.

– Đối với thanh niên trong lực lượng vũ trang, phải thường xuyên, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng mọi lúc mọi nơi, gắn với thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, học tập và công tác hàng ngày. Trước sự tuyên truyền, kích động chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, đòi hỏi thanh niên trong lực lượng vũ trang phải nghiêm túc, tự giác tu dưỡng rèn luyện đạo đức, trung thành, kỷ luật, đoàn kết; dũng cảm, xung kích, tình nguyện; trí tuệ, sáng tạo để xứng đáng với phẩm chất “Bộ đội cụ Hồ”; phẩm chất của người chiến sỹ công an nhân dân “Vì nước quên thân – Vì dân phục vụ”.

Năm 2020, là năm có rất nhiều dấu mốc và sự kiện lịch sử quan trọng của Đảng, đất nước và tổ chức Đoàn, mỗi thanh niên cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, vững vàng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực tham gia thực hiện chủ đề công tác năm: “Tuổi trẻ Việt Nam tự hào tiến bước dưới cờ Đảng” với 04 đợt hoạt động cao điểm kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng với chủ đề “Tuổi trẻ Việt Nam sắt son niềm tin với Đảng” (từ đầu năm đến hết 03/02); kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với chủ đề “Tự hào Tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ” (từ tháng 3 – 19/5); kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 với chủ đề “Tự hào Việt Nam” (từ tháng 6 tới 2/9) và chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII chủ đề “Tuổi trẻ Việt Nam tự hào tiến bước dưới cờ Đảng” (tháng 10 đến hết năm 2020 và sang tháng 01/2021); chủ động tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo văn kiện đại hội đảng các cấp và dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; tăng cường tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là cuộc đấu tranh trên không gian mạng; tích cực thực hiện các tin, bài phản bác lại các luận điểm xuyên tạc của các thế lực thu địch; phấn đấu “mỗi đoàn viên mỗi ngày chia sẻ một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp trên mạng xã hội”.

Để thực hiện được mong ước của Bác Hồ kính yêu và kỳ vọng, quan tâm, chăm lo của Đảng, nhân dân và toàn xã hội đã dành cho thanh niên, mỗi thanh niên Việt Nam phải luôn không ngừng học tập, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cách mạng, luôn “Dưỡng tâm trong – Rèn trí sáng – Xây hoài bão lớn”, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân giữ vững các thành quả cách mạng, thực hiện bằng được mục tiêu cao cả: xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu, như Bác Hồ hằng mong muốn.

Mời bạn đọc tham khảo thêm các bài viết liên quan thuộc mục Bài thu hoạch – Bài dự thi thuộc Chuyên mục Tài liệu. 

Đăng bởi: Phòng Giáo Dục và Đạo Tạo Sa Thầy

Chuyên mục: Tổng hợp

Rate this post